Bài thơ trên mô tả những nét đặc trưng tiêu biểu về nội dung của
chín truyền thuyết lưu hành ngàn đời trong lòng Dân Tộc Việt
Nam, được gọi là Chính Thuyết Tiên Rồng.
Chính thuyết này thì khác biệt với cái gọi là “Chủ thuyết Mác –
Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại” đang ra sức tuyên truyền, cải
tạo tư tưởng,
mà còn làm tha hóa Con Người Việt Nam sống trên quê hương đất
nước do Đảng Cộng Sản chủ trương.
Vì thiếu quan niệm sống Phúc Đức của Tổ Tiên linh huấn, cho nên
những lãnh tụ chính trị tiền nhiệm trong thời cận đại của Việt
Nam đã nhắm mắt làm ngơ, du nhập những chủ thuyết và tổ chức
ngoại lai, với ước mong cứu dân cứu nước thoát ách thực dân Pháp.
Nhưng thực tế, vì thiếu Sức Mạnh Hồn Việt, cho nên Việt Cộng đã
tạo ra nghiệp chướng với những hành động phản dân hại nước, chém
giết, tù đày và hủy hoại nhân tài nhằm duy trì độc đảng cầm
quyền trong gần thế kỷ nay.
Hậu quả nhãn tiền là Đảng Cộng Sản dẫn đưa dân nước vào tròng nô
lệ kinh tế do tập đoàn cai trị Trung Quốc chủ xứơng, với các
chính sách do thiên triều soạn thảo
và
đem ra cho Việt Nam thi hành. Từ những việc đấu tranh giai cấp,
đấu tố và chém giết trong cuộc cải tạo ruộng đất Miền Bắc vào
thập niên 1953, cho tới cướp phá tài sản, tù đày cải tạo người
dân Miền Nam sau năm 1975, rồi nhượng đất bán biển đảo nhằm thực
thi sách lược đô hộ của quan thày Trung Quốc “một vành đai, một
con đường” để trở lại thời kỳ ngàn năm Bắc Thuộc như đã từng xảy
ra trong lịch sử.
Bởi thế sự chọn lựa tư tưởng sai lầm và thiếu Sức Mạnh Hồn Việt
trong công cuộc tổ chức giải cứu Dân Nước, là điều kiện tiên
quyết mà mọi người chúng ta cần quan tâm lưu ý. Trong khi Chính
Thuyết Tiên Rồng là tinh hoa nền tảng của Văn Hóa Việt, được Tổ
Tiên trang trọng đúc kết thành Biểu Tượng Tiên Rồng, lưu truyền
trong lòng Dân Tộc trải qua bao ngàn đời của Lịch Sử Việt.
Bổn phận và trách nhiệm của người Con Cháu Dân Tộc, như chúng
ta ngày nay, là tìm hiểu học hỏi để nhận biết ý nghĩa trọng đại
của Biểu Tượng Tiên Rồng mà Tổ Tiên muốn nhắn gởi, và chắc chắn
đang ẩn chứa bao điều cao siêu hiện thực trong đó.
Chính Thuyết Tiên Rồng cũng khác biệt với cái gọi là Tứ Thư
Ngũ Kinh, Cửa Khổng Sân Trình, hay chữ Hán Nho trong kinh sách
của người Trung Quốc. Điển hình, Kinh Dịch khai triển theo khái
niệm âm dương, hay Tam Tài Thiên – Địa – Nhân (Thiên hoàng, Địa
hoàng, Nhân hoàng) là những ý niệm trừu tượng và là thành quả
của óc suy luận thuần túy về Vật Chất vô tri vô giác.
Chính Thuyết Tiên Rồng của Tổ Tiên lại đặt căn cứ trên Biểu
Tượng Tiên Rồng về Con Người – đó là kết tinh của nhận thức hiện
thực làm nền tảng cho con người, là mọi người và mỗi Người đều
được tạo thành do Mẹ Tiên Cha Rồng phối hiệp. Tất cả cùng được
sinh ra một lần, một lúc trong Một Bọc Trăm Con mà chúng ta tự
xưng mình là đồng bào – đồng có nghĩa là cùng, bào là cái bọc,
tức là anh em ruột thịt trong cả nước – làng hay vũ trụ – nhân
loại.
Theo giòng thời gian và đà xác tín quý trọng của toàn dân, chữ
Tiên Rồng trở thành biểu hiệu cho Hai Vị Tộc Tổ, khai sinh ra
dòng giống dân Việt vào khởi đầu lịch sử nhân loại. Bởi thế mà
ngày nay mọi người Việt Nam chúng ta hãnh diện và xưng mình là
Con Cháu Tiên Rồng.
Chính Thuyết Tiên Rồng cũng không xuất phát từ chủ nghĩa, chủ
thuyết, triết thuyết hay một nền tảng học thuyết của tôn giáo
nào, mà được Tổ Tiên nhận diện đúng thực Con Người và Cộng Đồng
Xã Hội, qua sinh hoạt và tâm tư bộc lộ cũng như thể hiện nếp
sống văn minh văn hóa trong một xã hội anh em, Xã Hội Đồng Bào,
xã hội của con người và làm người đích thực.
Điểm khác biệt trong Lịch Sử Việt là Tổ Tiên truyền khẩu, truyền
miệng, truyền cho nhau ghi nhớ Biểu Tượng Tiên Rồng ròng rã hàng
bao nhiêu đời con cháu, từ đời này qua đời khác, làm nổi bật đặc
tính sinh hoạt sống động hiện thực trong nếp sống của toàn thể
Dân Tộc Việt, được gọi là Văn Hóa Việt.
Chớ không phải hệ thống văn từ như đã ghi trong Lĩnh Nam Chích
Quái của nhà văn Trần Thế Pháp, mới xuất hiện vào đời Nhà Trần
và được ghi nhận là tác giả viết theo văn hóa thời cuộc nhằm
mang tư tưởng phò thiên triều phương Bắc.
Bởi thế theo cách lưu truyền của Tổ Tiên, thì văn từ hay tư
tưởng đã thường bị bóp méo, hiểu lệch lạc ý nghĩa tùy theo chế
độ hiện hành, hoặc theo thời gian mà sửa đổi nội dung ngôn từ,
đang khi biểu tượng thì mang tải ý nghĩa trước sau vẫn thế.
Chính Thuyết Tiên Rồng ngày nay được anh em trong tổ chức Hoa
Tiên Rồng phục hưng và khai sáng nhằm mục đích Giúp Dân Cứu
Nước. Chúng ta trao chìa khóa cánh cửa tâm tư cho nhau, để cùng
nhau mở rộng cửa kho tàng Văn Hóa Việt, và tìm lại những báu vật
là Gia Tài Tổ Tiên để lại cho những ai xưng mình là Con Cháu
Tiên Rồng.
Chính thuyết chẳng những trung thực, mà còn thích hợp, thích
nghi với hiện cảnh sống cho mọi người, mọi lứa tuổi, không phân
biệt giới tính hay thời đại văn minh nhân loại. Vì chính thuyết
luôn mở rộng cửa đón nhận tất cả những gía trị, tinh hoa tư
tưởng trong đời sống nhân sinh, khai triển nếp sống con người,
là Đạo Sống Việt trong Xã Hội Đồng Bào, xã hội thân thương bình
đẳng, xã hội anh em từ một Bọc Mẹ Trăm Con của truyền thuyết
Tiên Rồng.
Chín truyện tích được lưu truyền trong Toàn Dân Việt từ đời này
qua đời khác lại cưu mang những đặc điểm làm nổi bật biểu tượng
Tiên Rồng, tức là có hai nhóm đặc tính Tiên Rồng được nhận diện
nơi Con Người và Cuộc Sống, kế đến là phần cốt truyện lại nhắc
tới thời đại của các Vua Hùng Dựng Nước.
Dù rằng trong chín câu truyện ấy ẩn chứa nhiều tình tiết dị biệt
ly kỳ, nhưng vẫn được Ông Bà lưu truyền nguyên vẹn tinh ròng cho
chúng ta tới thời nay. Và bổn phận trách nhiệm của chúng ta là
tìm hiểu, khám phá kho tàng Văn Hóa Việt để tìm lại những báu
vật gia tài Dân Nước, bởi thế mà có Hoa Tiên Rồng ra đời nhằm
Giúp Dân Cứu Nước, tổ chức tương quan lực lượng và đấu tranh
chính trị với các loại giặc nước.
Mỗi truyện tích của Chính Thuyết Tiên Rồng lại được nhắc nhớ
bằng những biểu hiệu tôn quý trong các dịp Lễ Tết của Dân Tộc
Việt Nam. Tất cả đã kết tinh quan niệm sống của dân tộc, và liên
hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống chỉ đạo mạch lạc,
sống động và hiện thực, làm nền tảng căn bản cho toàn thể Văn
Hóa Việt – tổng hợp và hệ thống hóa này được gọi là Hệ Tiên
Rồng, tức là cái nhìn vào thực tế cuộc sống Con Người, đặt căn
cứ trên cuộc sống một cách trọn vẹn, và không ra khỏi hay xa lìa
cuộc sống con người.
Do đó Hệ Tiên Rồng còn được gọi là Sinh Thức Hệ, tức là Chính
Thuyết Tiên Rồng. Hệ thống biểu tượng Tiên Rồng này không phải
do một người, hay nhóm người phát minh sáng chế ra, mà là cả một
nền văn hóa đã và đang sống trong lòng Dân Tộc, dù ý thức có
khác biệt ít nhiều, tùy người, nhưng Văn Hóa Việt được phát hiện
là một hệ thống toàn bích, đang chỉ đạo cho tòan thể cuộc sống
Xã Hội Con Người.
Việc tìm hiểu, khảo cứu, áp dụng, ứng dụng để sống thích nghi
với hiện cảnh là cả một tiến trình dài như bao ngàn năm trường
tồn của Tộc Việt – khác biệt với Tộc Hoa – vẫn luôn tiếp diễn,
cao siêu và hiện thực, là đặc điểm của Con Cháu Việt. Có thể nói
mỗi chữ, mỗi câu, mỗi mệnh đề của Chính Thuyết Tiên Rồng ngày
nay đang biên khảo, thì cũng đang trông chờ cả một thiên khảo
cứu về lịch sử văn hóa của Dân Tộc Việt.
Bởi thế cho nên, đây cũng là phần mà mọi người trong chúng ta
cần tìm hiểu, học hỏi, thảo luận và đừng quên sự đóng góp thêm
những khám phá mới của bạn, của chính bạn vào kho tàng Văn Hóa
Chính Trị cao siêu hiện thực và tuyệt vời của Tổ Tiên.
Ðiểm đặc biệt Tổ Tiên để lại, là một hệ thống biểu tượng chớ
không phải hệ thống ngôn từ hay tư tưởng, vì rằng ngôn từ, tư
tưởng thường bị tuyên truyền lệch lạc bóp méo nội dung hay ý
nghĩa bởi mưu đồ danh lợi của nhà cầm quyền, chế độ hay thời
gian.
Nhưng ngược lại, biểu tượng thì trước sau vẫn thế, vẫn còn
nguyên vẹn tinh ròng dù cho trải qua ngàn đời con cháu, và cứ
tùy thuộc thời đại mà chúng ta dùng ngôn từ thích hợp mà diễn tả
biểu tượng, như trong Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age) của
nhân loại hôm nay.
Trong mỗi bài chánh thuyết của dân tộc, là ghi chép lại những
điểm chính yếu, cưu mang bài học của Tổ Tiên. Dĩ nhiên, với thời
gian cùng với sự phù trợ của Đức Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi,
chúng ta sẽ có bản văn hoàn hảo, đúng thực và trọn vẹn, vì do
đón nhận sự đóng góp ý kiến của nhiều người, của toàn dân.
Diễn giải chánh thuyết, là phần có tham vọng đào sâu, tìm hiểu
hệ thống biểu tượng tới tận ý nghĩa, và cố gắng đạt đến điểm tột
cùng của suy tư có thể có. Do đó phần diễn giải, đôi khi trở
thành khó hiểu cho một số người đọc, tuy nhiên bạn đọc có thể
căn cứ vào lịch sử, vào đời sống dân nước mà rút ra những thí dụ
cụ thể, những gương sống thực của các vị Minh Quân, Văn Thánh Võ
Thần mà cùng giúp cho nhau học hỏi, thông toàn bài học của Tổ
Tiên.
1.
Truyền Thuyết Tiên Rồng
Sau phần diễn giải là phần Tìm hiểu chính thuyết. Tiên Rồng được
gọi là bài học Nền Tảng đầu tiên, vì trong đó chúng ta có nhận
diện, có định nghĩa về Con Người và Xã Hội một cách hoàn chỉnh,
toàn diện và đúng thực. Phần bài này được coi là đúc kết những
nét đặc thù của Văn Hóa Việt, khai thác hết những nét đặc thù đó
chúng ta có hệ thống tư tưởng chỉ đạo sống động và hiện thực,
gọi là Hệ Tiên Rồng, qua nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp để áp
dụng vào cơ cấu tổ chức xã hội con người, như biểu tượng Bọc Mẹ
Trăm Con.
Bài học nền tảng bởi Tổ Tiên đề ra nguyên lý sinh hóa của vạn
vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng
Song Hiệp Hoàn Chỉnh. Với bài học Tiên Rồng, chúng ta có được
định nghĩa về con người hoàn chỉnh toàn diện, đúng thực: Thân –
Trí – Tâm – Tuệ (Thân xác sinh động, Trí năng tinh biến, Tâm
tình thông hiệp, Tuệ linh vĩnh cửu) của con người do Mẹ Tiên Cha
Rồng song hiệp.
Và từ nguyên lý mà chúng ta khai triển thành nguyên tắc áp dụng
vào việc tổ chức như Cánh Kinh Thương, Cánh Thanh Niên, Cánh Xã
Hội và Cánh Chính Trị của một Hoa Tiên Rồng.
Đặc biệt, Con Người Tiên Rồng, chúng ta khác biệt với những Con
Người của nền văn hóa duy vật, duy lợi, duy tâm, duy linh đang
làm tha hóa con người, và con người biến thành sinh vật kinh tế,
con thú tiến bộ, động vật lao động trong hãng xưởng, và chi phối
bởi cơ quan truyền thông rộn ràng hàng ngày.
Văn hóa và tổ chức ba góc theo hình Kim Tự Tháp trước mắt, chúng
ta nhận ra đó là tổ chức chủ nô, trên là chủ nhân – dưới là nô
lệ, trên là đảng trị – dưới là bị trị, cho dù cổ súy Chân –
Thiện – Mỹ mà thiếu Tình thì chỉ là con người khiếm khuyết hạnh
phúc.
Đang khi trong Truyền Thuyết Việt, Tổ Tiên lại nhận diện Con
Người Tiên Rồng một cách đúng thực, và cộng đồng xã hội là Đồng
Bào, là anh em từ Một Bọc Trăm Con của Mẹ Tiên Cha Rồng, tức là
biểu trưng cho một xã hội bình đằng tột cùng và thân thương tột
cùng.
Tiên Rồng đưa ra ý niệm về các đặc tính cá biệt của Tiên, của
Rồng, và mẹ Tiên cha Rồng đã phối hiệp toàn nhất tương đồng. Bởi
thế Tiên và Rồng là kết tinh toàn vẹn cho mọi tương quan sinh
họat của con người, tương quan anh em nhằm thể hiện Con Người
Tiên Rồng.
Biểu tượng Một Bọc Trăm Con của Chính Thuyết Tiên Rồng đã khẳng
định Đặc Tính Xã Hội bẩm sinh và ngay cùng một lúc có trăm con
người, cũng do kinh nghiệm của cuộc sống gia đình, với mẹ với
cha, với anh chị em qua hình ảnh của tổ chức trăm người trăm
việc – mỗi người mỗi việc, chớ không bao đồng công tác hay dẫm
chân lên nhau.
Trong cuộc sống, con người nhận ra mình không thể sống đơn độc,
mà ngay từ lúc bắt đầu sự sống, con người cần có mẹ có cha, có
sự chăm sóc bảo bọc của tình thân ruột thịt anh chị em. Vì nếu
sống đơn độc, con người không thể phát triển toàn vẹn về cuộc
sống xứng đáng là người và làm Người.
Do kinh nghiệm từ đó con người nhận ra mình vừa là một hiệp thể
cá biệt toàn vẹn, mà cũng vừa là một thành phần cộng đồng xã hội
anh em, và vừa cùng chung một nguồn sống Mẹ Tiên Cha Rồng.
Cũng do kinh nghiệm của cuộc sống trong tình thân với cha mẹ anh
chị em, con người nhận ra mình cũng có cùng một nguồn gốc, cùng
một sức sống, và cùng chia sẻ cuộc sống với nhau, trong nhau và
cho nhau. Con người rút tỉa kinh nghiệm cuộc sống từ bản thân,
quây quần trong gia đình, tuy thế cuộc sống cũng không đóng
khung trong tập thể hạn hẹp, mà đã mở rộng với nhiều con người
khác nữa.
Vì vậy hai truyền tích Chử Đồng và Trầu Cau đã ghi nhận kinh
nghiệm do cuộc sống đông người, tức xã hội anh em, Xã Hội Đồng
Bào.
Con Cháu Tiên Rồng -
Video Tám Tình Tang
2. Truyền Thuyết Trầu Cau
Bài học Trầu Cau chia sẻ trực tiếp với bài học Tiên Rồng, là rút
tỉa hình ảnh từ Bọc Mẹ Trăm Con ra hai anh em sinh đôi, giống
nhau như đúc, thương nhau rất mực và chưa hề lìa nhau để ứng
dụng vào đời sống con người, bằng Nếp Sống Tiên: Thân Thương Tột
Cùng của Con Người.
Bài học Trầu Cau đã đặt nền tảng tương quan giữa người với người.
Nghĩa là “thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, mà dẫu có
chết cũng vẫn còn thương.”
Tương quan anh em và tương quan vợ chồng trong một tổ chức.
Vì là nền tảng tương quan giữa người và người, nên cũng là nền
tảng cho Xã Hội Con Người, được tổ chức từ gia đình, gia tộc cho
tới cấp dân tộc hay cấp nhân loại theo nguyên lý Thân Thương Tột
Cùng.
Từ lời linh huấn của Tổ Tiên quá thâm thúy diệu vời đó, cho nên
chúng ta đã nhìn nhận xã hội Việt trong đó có bao tấm gương sáng
ngời: nào là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, thiếu phụ Nam
Xương, Anh phải sống, nuôi chồng trong tù cải tạo của cộng sản,
và thành tín với vợ, chung thủy đợi chờ ngày đoàn tụ, dù tới
chết cho gia đình hay chết cho quê hương thì cũng vẫn còn thương:
“Tình nhà tình nước chết chưa hết tình!”
Cũng do kinh nghiệm cuộc sống thân thương của gia đình, con
người nhận ra tình cảm giữa người với người, được xuất phát từ
việc chúng ta nhìn nhận nhau là Anh Em,Giống nhau như đúc,
và từ tâm thức ấy mà Quyết chẳng lìa nhau.
Tình yêu thương ruột thịt đó lại nhận thêm nhiều kinh nghiệm khi
gia đình có thêm những người xa lạ, như người Anh trong truyền
thuyết Trầu Cau cưới vợ, và cùng sống chung với người Em dưới
một mái ấm gia đình.
Với cuộc sống đầy biến chuyển và trắc trở hiện nay, con người
nhận ra rằng, tình thân thương chỉ tồn tại khi ta sẵn sàng đánh
đổi cả cuộc sống mình cho những người mình mến thương, Sẵn sàng chết cho nhau, chết vì người
thương.
Và rồi dù yêu thương nhau khắng khít, dù vượt thắng mọi trở ngại
để bảo vệ tình thân thương, con người cũng trải qua kinh nghiệm
qua sự chết, qua việc người thân vĩnh viễn chia lìa bởi đi tìm
nhau mà chết, hóa thành trầu thành cau hoặc thành đá vôi.
Nhưng cũng do chính kinh nghiệm thăng hoa thành đá, trầu hay cau
đó, do lòng thương nhớ không nguôi, con người lại cảm nhận là sự
chết chẳng những không chấm dứt hoặc ngăn cản, mà trái lại, còn
giúp chúng ta thể hiện trọn vẹn tình Thân Thương Tột Cùng, Mãi
mãi có nhau, và khi đó không còn bất cứ gì có thể ngăn cản chúng
ta kết hợp với nhau trong yêu thương, trong bảo bọc, trong tình
nghĩa đồng bào.
Cố Đô Hoa Lư
3. Truyền Thuyết Chử Ðồng
Nếu như bài học Trầu Cau trong Chính Thuyết Tiên Rồng, rút tỉa
từ “Bọc Mẹ Trăm Con” ra hai anh em, hai con người để áp dụng
nguyên lý “Thân Thương Tột Cùng” của Nếp Sống Tiên, thì để dạy
bài học “Bình Ðẳng Tột Cùng” và làm sáng tỏ Nếp Sống Rồng, Tổ
Tiên lấy lại hình ảnh Tiên Rồng trong cặp Tiên Dung – Chử Đồng.
Công Chúa Tiên Dung là người đẹp, giầu, sang được mọi người yêu
thương kính trọng, quyền thế cao cả tột cùng trong xã hội –
Chúng ta thường nói sướng như tiên, theo chữ nho, chữ nhân ghép
với chữ sơn thành chữ tiên, tiên là người ở núi, núi của, vật
chất.
Cô Gái Việt tuổi trăng tròn thì chỉ có người thương mến qua dung
nhan xinh đẹp, tính tình hiền hòa, ăn nói mặn mà có duyên.
Bởi Vua Cha còn có người không ưa, nhưng Công Chúa thì lại được
cả triều thần quý trọng, khiến bao trai thanh gái lịch thầm mơ
kết bạn với nàng!
Giờ đây Công Chúa Tiên Dung qủa là tiên giáng trần, viếng thánh
địa nơi chàng rồng Chử Ðồng đói khổ, lang thang bên bờ sông bãi
sú để kiếm ăn. Chàng nghèo đến nỗi chỉ có cái khố (cái quần
đùi), mà vì hiếu thảo với cha nên Chữ Đồng phải cởi ra để liệm
cho cha lúc người lìa trần.
Rồi sau đó chàng phải đành sống với cảnh tồng ngồng (không mặc
quần) không khố! Nghèo tới cỡ đó là cùng! – Chử Đồng quả thực
đang biểu hiện cho phần tinh thần, linh thiêng. Tiên Dung là
biểu hiện của phần của cải, vật chất… và khi Tiên Rồng song
hiệp! Hai thành phần linh thiêng và vật chất trong con người.
Tổ Tiên muốn dạy chúng ta điều gì vậy? Vâng, muốn sống với nhau,
trước tiên chúng ta phải Thấy Nhau bằng con người thật, con
người tinh tuyền, con người không bị lụa là gấm vóc vàng bạc,
vật chất tài của che phủ… Quan niệm này đã khác biệt với những
con người của xã hội đương đại vì họ lấy vật chất mà đo lường
giá trị con người, chớ họ không nhìn nhận, không thấy nhau bằng
con người thật như lời Tổ dạy.
Mặt khác, chàng là rồng thì ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) để
chờ đợi cho tới khi công chúa Tiên Dung vây màn tắm gội... Nàng
từ trời xuống, chàng từ đáy sông lên... Nàng giầu sang tuyệt
thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm!
Xin hỏi, có ai hơn công chúa và ai thua chàng không khố… thế mà
nên duyên, mà song hiệp, mà hoàn chỉnh… thì thử hỏi, xã hội này
còn kẽ hở nào để mà phân cách, mà phân ngôi định cấp, phân chia
giai cấp hay đấu tranh giai cấp?
Chính nhờ sự Song Hiệp Tiên Rồng đó, con người mới được hạnh
phúc. Tiên Dung Chử Ðồng đã giúp dân.
Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng
(dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại
thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy
thần rút đất)… và rồi khi họ Về Trời, dân chúng cũng được về
theo, nghĩa là tất cả cũng được thành tiên… đẹp như tiên, sướng
như tiên, hạnh phúc cực lạc!
Nhìn lại cuộc sống càng kéo dài và càng có đông người, thì con
người càng thêm kinh nghiệm về những khác biệt trong tài năng,
trong sức lực, cũng như trong may rủi, bất toàn của cuộc đời…
như kinh nghiệm của Tiên Dung và của Chử Đồng.
Do đó, do kinh nghiệm đối xử với nhau, và do tâm tình muốn bảo
đảm cuộc sống tốt đẹp cho hết mọi người, con người nhận ra rằng
mỗi người phải Nhận thực chính mình.
Khi đã biết rõ thân phận Con Người của mình, mỗi người lại phải
nhìn nhận và sống với những con người khác như những con người
tinh vẹn, không để bất cứ ngọai vật nào làm sai lạc hình ảnh
đích thực của con người.
Chỉ thấy con người.
Cũng do kinh nghiệm san sẻ trong tình thân, con người nhận ra
cách xử dụng thích đáng tài năng và của cải. Tài và của chỉ là
những phương tiện để gíup nhau cùng phát triển, Tài của giúp
người, để tất cả Mọi người cùng hưởng hạnh phúc và thăng tiến,
không trừ ai.
Những kinh nghiệm sống đó, Tổ Tiên đã gói ghém tuyệt vời trong
truyền thuyết Chử Đồng.
Nhắc tới đây, chắc chắn có nhiều bạn đọc hiểu nhiều về chi tiết
Văn Hóa Việt hơn cả người viết… còn bao điều muốn nói nữa, nhưng
mà làm sao mà nói hết được. Vì mỗi con cháu Việt – Con cháu của
Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng siêu việt như các bạn đọc – với tâm
hồn Việt, với máu huyết Việt luân lưu trong chính con người của
bạn, đó là cả một kho tàng Văn Hóa Việt tiềm ẩn trong bạn, xin
bạn hãy tự khai thác Gia Tài Tổ Tiên trong bạn?
Sau ba truyền thuyết làm Nền Tảng cho con người và cuộc sống
con người trong xã hội, Tổ Tiên dạy chúng ta về một cơ cấu quan
trọng nhất, đã chi phối mạnh mẽ tới đời sống con người, đó là
Nước, là quốc gia, là chính quyền.
1.Huấn Ca Tiên Rồng
Khai nguyên minh triết nước ta
Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình
[25] Từ đây thắm đượm ân tình
Trăm con chung bọc – mẹ sinh một lần
Trọn tình trọn nghĩa ái ân
Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau
Con người – hai nửa khác nhau
[30] Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng
Nửa phần còn lại reo mừng
Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca
Cha Rồng còn nhắn nhủ là
“Khi cần thì gọi – Có Ta về liền!”
[35] Tiên Rồng phát triển thường xuyên
Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông
Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng
Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui
Căn nguyên Nhận Diện Con Người
[40] Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng
Cha Rồng – biểu tượng nói rằng
Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa
Và Tiên hiện hữu trong ta
Làm nên người thật ấy là nhân sinh
[45] Mẹ Tiên – biểu tượng chứng minh
Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn
Con Người – nền tảng lập ngôn
Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây
Tiếp theo công cuộc dựng xây
[50] Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau
Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu
Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời
Trăm người trăm việc ai ơi
Căn cơ gia tộc tuyệt vời là đây
[55] Chẳng như tà thuyết phương Tây
Duy tâm, duy lợi… chất đầy bất công
Phân ngôi định cấp cộng đồng
Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày
Của tài vơ vét hàng ngày
[60] Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu
Cấp trên cứ mãi làm giàu
Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền
Nào là đảng trị chính chuyên
Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân
[65] Con người đau khổ muôn phần
Biến thành con thú – ta cần xóa tan
Thay bằng xã hội thịnh an
Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người
Quân bình tỷ lệ: năm mươi
[70] Số con theo mẹ bằng người theo cha
Tương đồng tuyệt đối ấy là
Song hiệp hoàn chỉnh – làm đà phát huy
Nguyên sinh vạn vật gẫm suy
Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người
[75] Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời
Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca
Núi – sông giao hữu hài hòa
Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời
Lý – tình minh định tuyệt vời
[80] Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi
Nước – nhà lúc thịnh lúc suy
Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu
Mỗi người: sống nét đặc thù
Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày
[85] Tinh thần – thể chất tỏ bày
Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời
Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi
Cá nhân – tập thể xin mời lo toan
Sống nhân – lẫn trí kiện toàn
[90] Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng
Gia đình: thuận vợ thuận chồng
Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung
Sống tình lẫn nghĩa – ung dung
Vô nam dụng nữ – cũng cùng như nhau
[95] Vợ chồng, con cháu trước sau
Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi
Gái trai – hiếu thảo xứng đôi
Kính thờ Quốc Tổ – nhớ nôi Tiên Rồng
Cộng đồng: trên dưới, nhưng không
[100] Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày
Thời nào mà chẳng nghèo – giàu
Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân
Tước thiên mà có tước nhân
Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười
[105] Gia đình – gia tộc, loài người
Từ làng đến xã vui cười đoàn viên
An dân chính trị gắn liền
Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no
Ðức – tài lãnh đạo chăm lo
[110] Chẳng vì chức vị tự do lộng hành
Nào đâu quân chủ chính chuyên
Thực ra dân chủ khắp miền lân bang
Phép vua thua với lệ làng
Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân
[115] Chăn dân mà lại ân cần
Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày
Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay
Quang minh chính đại – ra tay cứu đời
Sống theo văn hóa sáng ngời
[120] Với người khuất mặt – với đời nhân sinh
Xét về kinh tế xứ mình
Thực thi bình sản dân tình an khang
Không thừa không thiếu rõ ràng
Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi
[125] Tấc vàng tấc đất ai ơi
Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh
Trăng thanh gạo trắng hữu tình
Tạo ra của cải là vì thân thương
Con người gắn bó quê hương
[130] Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa
Xã làng – tổ chức nước ta
Vừa làm kinh tế – vừa là chiến khu
Giữ làng giữ nước – bao thu
Toàn dân là lính diệt thù lập công
[135] Có văn lẫn võ – hòa đồng
Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh
Hỡi cô du kích chung tình
Bên anh diện địa – có mình có ta
Vừa lo giết giặc – mà là
[140] Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào
Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào
Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người
Tại tâm – thể hiện vui tươi
Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm
[145] Trên dương sống mãi như âm
Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời
Bao điều tôn giáo tuyệt vời
Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi
Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi
[150] Tình chân thiện mỹ – không gì sánh hơn
Ngày nay nhân loại gặp cơn
Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh
Gây ra bao cảnh bất bình
Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em
[155] Xin mời thế giới đến xem
Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng
Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng
Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người
Trăm Con Một Bọc tuyệt vời
[160] Công bình bác ái sáng ngời là đây
Từ bi hỷ xã chứa đầy
Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người.
1.Huấn Ca Trầu Cau
Thứ hai diễn tả tình người
Ông Bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau
[165] Sinh đôi – hai đứa giống nhau
Trăm con một bọc – cơm rau cạnh kề
Có nàng chớm tuổi cặp kê
Luống mong mình có tóc thề sánh vai
Nàng nhìn tư cách cả hai
[170] Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau
Giúp nàng suy tính trước sau
Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh
Chuyện tình đậm nét xuân xanh
Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà
[175] Ngày kia trông cuốc hóa gà
Gặp em – nàng những nghĩ là “hôn phu”
Phận em đành quyết chu du
Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh
Hành trình biển nhớ đoạn đành
[180] Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi
Nhưng anh lòng luống bồi hồi
Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm
Khóc thương – tượng đá đang nằm
Người anh cũng chết biến nhằm cay cau
[185] Thương chồng – nàng mãi âu sầu
Đến nơi chồng chết – hóa trầu giây leo
Từ đây lễ tết, cưới cheo
Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau
Gẫm suy bài học Trầu Cau
[190] Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng
Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng
Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh
Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh
Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta
[195] Trăm Con Một Bọc – sinh ra
Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành
Chu toàn trách nhiệm làm anh
Sánh duyên thiếu nữ – đặt thành tương quan
Ðến khi xảy chuyện bất an
[200] Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời
Chẳng như thiên hạ - xử đời
Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em
Tổ Tiên ta lại những xem
Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương
[205] Cả ba – cùng chọn một đường
Ðồng sinh đồng tử – tình thương vẹn toàn
Dương âm – hằng sống bình an
Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi
Vị cay thơm ngát hương môi
[210] Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương
Tích truyền nhân loại tỏ tường
Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi
Sẵn sàng phải chết – xá chi
Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương
[215] Sống trong xã hội bình thường
Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây
Gia đình gia tộc – xum vầy
Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu
Tương quan xét đến các chiều
[220] Từ làng đến nước – một điều thân thương
Sáng soi chân lý ngàn phương
Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu
Toàn dân – thực sống chung tầu
Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy
[225] Nước nhà – lâm cảnh phân ly
Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai
Tiên Rồng văn hóa thoát thai
Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương
Anh em, con cháu – tỏ tường
[230] Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng
Hôm nay tà thuyết nói chung
Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?
Bởi chưng nền tảng khinh thường
Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù
[235] Nhân quyền, cải tiến, nhà tù
Bất công chồng chất – mặc dù đấu tranh
Ta xem sự thể rành rành
I – you, nị – ngộ… tị ganh hàng ngày
Ðồng đẳng – là chữ giãi bày
[240] Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây
Ta nhìn văn hóa phương Tây
Ðộc tài đa đảng – chứa đầy bất công
Nhưng theo Chánh Thuyết Tiên Rồng
Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương
[245] Tình Người – ta hãy am tường
Tâm Tụê nơi Mẹ – yêu thương dẫn đầu
Triển khai truyền thuyết nhắc câu
Cả hai diễn tả nhiệm mầu “chữ Song”
Trầu Cau liên kết Chử Ðồng
[250] Hình thành “chữ Hiệp” – Tiên Rồng là đây
Căn nguyên Song Hiệp giãi bày
Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời
Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời
Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua
[255] Tới nay bổn phận chúng ta
Giúp Dân Cứu Nước – phục hồi quê hương
Tái sinh xã hội kỷ cương
Đề cao nguyên lý Thân Thương Tột Cùng
Hoa Tiên Rồng
3.
Kinh Chử Đồng
Thứ ba truyền thuyết Sống Chung
[260] Tổ Tiên thuật chuyện Tiên Dung – Chử Ðồng
Sống trong xã hội Tiên Rồng
Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung
Có nàng Công Chúa Tiên Dung
Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi
[265] Như tiên tung cánh giữa trời
Luống mong tìm đến một nơi an bình
Kể ra cho rõ sự tình
Chử Ðồng vất vưởng mỗi mình ven sông
Thương thay kiếp sống Cha Rồng
[270] Áo cơm không đủ – chất chồng cô đơn
Sớm khuya lòng luống mong ơn
Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày
Đợi chờ cũng đến một ngày
Ước sao nên một – kiếp này thảnh thơi
[275] Sáng nay công chúa ghé nơi
Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa
Hiện thân – mình ngọc tay ngà
Nào ngờ – dưới cát vốn là ẩn nhân
Nước trong – cuốn sạch bụi trần
[280] Trôi theo lớp cát – hiện thân Chử Ðồng
Cao xanh đã thắt chỉ hồng
Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên
Mẹ Tiên – vội xuất bạc tiền
Xây làng dựng phố – khắp miền ấm no
[285] Con dân – ra sức chăm lo
Dựng nên cuộc sống tự do thanh bình
Cha Rồng cũng góp phần mình
Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân
Tạo ra sung túc muôn phần
[290] Cộng đồng phát triển – đang cần bình an
Đời người lắm chuyện liên can
Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu
Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu
Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời
[295] Căn nguyên Nền Tảng tuyệt vời
Làm Con Người Thật là lời khuyên chung
Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng
Tổ Tiên diễn tả nội dung Tiên Rồng
Tích xưa – thiên hạ thổi phồng
[300] Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi
Thứ dân – cũng loại hoa khôi
Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu
Tạo ra giai cấp khác nhau
Ăn trên ngồi trốc “bí – bàu” đấu tranh
[305] Bất công xã hội rành rành
Chủ nô chế độ – đoạn đành anh em
Tiên Rồng triết thuyết lại đem
Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa
Tiên Dung trẻ đẹp như hoa
[310] Giầu sang quyền thế – vậy mà yêu dân
Chữ Ðồng không khố che thân
Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên
Nàng Tiên lưu lạc khắp miền
Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ
[315] Chàng Rồng nào dám hững hờ
Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên
Thấp cao – ván đã đóng thuyền
Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia
Như dân – trong nước một nhà
[320] Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa
Tiên Rồng văn hóa sáng tia
Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời
Nơi đây Chỉ Thấy Con Người
Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên
[325] Thực thi Bình Ðẳng như Tiên
Ta noi gương Mẹ – dùng tiền nuôi dân
Gương Cha – cũng được góp phần
Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên
Giúp dân Sống Thực căn nguyên
[330] Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa
Cháu con noi đức mẹ cha
Tài năng của cải chỉ là hỗ tương
Chớ dùng tài của đo lường
Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa
[335] Mà gieo tai họa đầm đìa
Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo
Gây ra cuộc sống cheo leo
Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn
Tiên Rồng – xã hội thịnh an
[340] Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài
Chẳng dành hạnh phúc riêng ai
Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình
Từ người tới vật hữu sinh
Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương
[345] Tuy rằng cũng có ít phường
Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành
Ðể răn những kẻ lộng hành
Toàn dân khinh bỉ – Sử xanh chê cười
Chẳng như văn hóa xứ người
[350] Chủ nô – cổ võ coi người như trâu
Cấp cao sẵn thế làm giầu
Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền
Và nền Ðạo Việt lại khuyên
Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu
[355] Sống theo nguyên lý đặc thù
Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người