Trước hết tác giả Phạm Văn Bản xin chân thành cảm
tạ Quý Anh Chị
của những Channel đã đọc và làm video qua nhiều
bài viết của Bản để giới thiệu và có thêm nhiều bạn đọc. Bản
cũng xin chào hỏi
toàn thể Quý Độc Giả và thân chúc Quý Vị & Các
Bạn một ngày đẹp vui
Bài Số 1 - Xin mở đầu 2 Videos với trang
Chuyến Bay Định Mệnh
Video 1: Nam Hòa - Nam
Nguyễn đọc
Vincent Pham Văn Bản, Khóa 72-04 Sheppard AFB, Texas năm 1972
Vào những tháng cuối năm 1974, phi đoàn Thần Báo chúng tôi nhận
lệnh di chuyển về biệt đoàn 74 zulu đóng quân ở phi trường Tân
Sơn Nhất. Cũng kể từ ngày ấy, trung tâm hành quân của biệt đoàn
chúng tôi được đặt tại một khu trường cai nghiện cũ, Sư Đoàn 5
Không Quân.
Nơi đó kế cận với ủy ban quân sự liên hợp của Cộng Sản Hà Nội và
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hàng ngày di chuyển qua lại trong
căn cứ, chúng tôi, những sĩ quan phi hành lúc nào cũng giữ tác
phong quân kỷ và lịch sự chào hỏi nhóm Cộng quân đang đóng nơi
đây.
Nhưng ở ngoài chiến trường kia chúng tôi rất nghiêm khắc với bản
thân, chi ly tính toán trong việc điều chỉnh những trái bom,
viên đạn sao cho rót trúng đầu địch. Nhiệm vụ người hoa tiêu khu
trục của chúng tôi là yểm trợ quân bạn đang ngày đêm miệt mài
chiến đấu bảo vệ đời sống an lành cho đồng bào Miền Nam Việt Nam
tự do.
Tình hình chiến sự lúc này đang leo thang mãnh liệt. Phía Cộng
quân đã mở được những trận tấn công lớn, có chiến xa T54, và
được trang bị hỏa lực phòng không mạnh… nhằm ngăn chận các phi
vụ oanh kích của chúng tôi yểm trợ bộ binh. Với những dàn phòng
không của địch trông tợ như thiên la địa võng… tưởng đâu nó đã
giúp địch dễ dàng tung hoành, tấn công đánh phá vào các đơn vị
tiền phương của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Những tiền đồn này được đóng trải dài và trấn dọc theo biên giới
Lào Miên, ngăn chận cuộc xâm nhập của Cộng quân từ đường mòn "hồ
chí minh" xuyên qua hướng Hạ Lào.
Bởi thế, những danh xưng của Cộng quân từ các cấp lớn nhỏ, những
đoàn chiến xa T-54, những dàn súng phòng không, những địa danh
mà địch chuyển quân… thì bất cứ người hoa tiêu nào trong biệt
đoàn của chúng tôi, ai cũng phải biết và ai cũng thuộc lòng.
Chúng tôi thuộc lòng tọa độ địch, thuộc lòng đơn vị địch, thuộc
lòng hỏa lực địch.
Vì chiến tranh đang gia tăng ác liệt, cho nên những số phi vụ
hành quân của phi đoàn chúng tôi cũng được tăng lên. Trung bình
mỗi hoa tiêu thường trực ba bốn phi xuất trong ngày, ngoại trừ
phi vụ cấp cứu để bảo vệ vùng cho bạn mình đã bị lực lượng phòng
không Cộng quân bắn rơi.
Số hoa tiêu tử trận của phi đoàn Thần
Báo theo thứ tự thời gian là Thiếu Úy Nguyễn Văn Xi, Trung Tá
Huỳnh Văn Vui, Thiếu Tá Nguyễn Minh Sơn, Thiếu Úy Phan Văn Mỹ
Anh, Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử, Thiếu Úy Nguyễn Trường Thới...
Tôi sao quên được những ngày mãn khóa phi hành ở Hoa Kỳ về nước,
Xi và tôi được Bộ Tư Lệnh bổ nhiệm về phục vụ Phi Đoàn 520,
Không Đoàn 74 Chiến Thuật, Sư Đoàn 4 Không Quân và trở thành cặp
bài trùng đơn vị. Sau khi trình diện đơn vị, Xi rủ tôi về Sài
Gòn vào Salon Cự Phú lấy ra hai chiếc Vespa mới toanh.
Chúng tôi chạy về đơn vị, rồi giao xe cho nhóm bảo trì phi cơ
sơn lại xe theo đúng mẫu mã ngụy trang của phản lực cơ A-37, gắn
huy hiệu phi đoàn trước xe trông rất lẫy lừng. Hai cây súng P-38
của chúng tôi cũng được mang đi mạ bạc bóng lưỡng, báng súng thì
tháo ra và thay bằng báng nhôm phi cơ, có khắc hình long phụng.
Đạn thì được đánh bóng để gài vào bao đai da… với những loại đạn
đặc biệt như đàn chài, đạn chì, đạn bi, đạn lửa, đạn xuyên phá
do chúng tôi "ngoại giao" với cảnh sát tỉnh Phong Dinh mới có…
và tài tử cao bồi Texas cũng đâu sánh bằng!
Hằng ngày, Xi và tôi tranh nhau đánh giặc mỗi khi có phi vụ ra
ngoài tiền tuyến, ai phá sớm mục tiêu thì thắng. Chiều tối chúng
tôi trở về hậu phương lãnh giải bằng một chầu ở quán Nhớ Đời
quận Bình Thủy, một cảnh đẹp lừng danh nơi miền sóng nước tây đô.
Sở dĩ chúng tôi thường chọn quán này, vì đặc sản hấp dẫn như
trong thi ca, “Sống trên đời ăn miếng dồi chó, xuống âm phủ biết
có hay không.”… Cho nên, mỗi khi vừa nhận được lệnh hành quân,
là cả hai chúng tôi phải tranh nhau chạy vào phòng dù lấy nón áo
súng đạn, khoác vội lên người, leo xe phóng ra phi đạo.
Câu châm ngôn của chúng tôi đưa ra là mở máy sớm, cất cánh sớm,
đánh giặc sớm… Nếu ai bay trễ, đến lúc mục tiêu tan tành thì
đương nhiên thua cuộc, tự giác bỏ tiền bao nhậu, không thể chối
cãi!
Thời thanh xuân của chúng tôi lững lờ trôi, tới một ngày định
mệnh, vô tình tọa độ hành quân lại là quê hương sinh trưởng của
Xi – quận Mỏ Cày tỉnh Kiến Hòa. Lúc ra phi đạo mở máy, Xi liên
lạc bảo tôi, “Tao đi trước,” và Xi tiến đánh mục tiêu trước tôi
khi tôi còn làm vòng chờ ngoài vùng hỏa tuyến.
Nhìn thấy bom Xi vừa thả và còn đang rơi, Xi kéo tàu lấy lại cao
độ thì đột nhiên loạt hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 từ bờ Sầm Giang
bắn lên, trông nó đỏ lừ và đang chạy theo đuôi phản lực tàu Xi,
tôi vội gọi Xi bắn ra trái sáng. Nhưng định mệnh đã an bài cho
Xi, bởi rằng vệt dài khói trắng ác nghiệt kia đã hợp lại tàu Xi
thành một khối lửa đỏ lừa, rồi nổ tung như xác pháo hoa trên bầu
trời xanh bao la bàng bạc điểm vài áng mây.
Tôi nức nở khóc và gọi Xi đến khan cả giọng: "Thần Báo 12 nhẩy
dù"… không tiếng trả lời! "Thần Báo 12, đây 22 nghe rõ trả lời"…
Lời điện đàm lần cuối của tôi trong tiếng nấc nghẹn ngào và nước
mắt tuôn trào.
Cũng trong ngày Xi tử trận, ông Nguyễn Văn Công, thân phụ của Xi
kể lại cho tôi nghe rằng, hôm ấy ông cũng đang ngồi trên chiếc
máy cày và cày thửa ruộng bên bờ Sầm Giang gần đó, cũng thấy
tiếng nổ chát chúa trên nền trời và chiếc phản lực cơ A-37 đã
thành khối lửa lao xuống giữa sông… Không ngờ, người phi công
xấu số đó lại là con ông!
Mới ngày nào cặp bài trùng chúng tôi học cùng lớp, cùng trường,
cùng bằng tốt nghiệp trường sĩ quan bộ binh Thủ Đức, và cùng về
trình diện đơn vị Không Quân, cùng học sinh ngữ, cùng sống trong
phố lều - tent city, và cùng đi du học Hoa Kỳ. Đặc biệt trong
khóa học phi hành của chúng tôi, chỉ có Xi và tôi là hai người
đã có gia đình vợ con, còn lại toàn là độc thân.
Ngày 7 tháng 5 năm 1972 - Khóa 72-04 Sheppard AFB, Texas
Khóa 72-04 lãnh Cánh
Bay vào ngày 14 tháng 12 năm 1972
do Đại Tá Robert G
Liotta Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 3630 trao tặng Bằng Bay
Ngày về Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ, thì Xi yêu cầu tôi, lấy hai căn
nhà chung cư trong khu Hoàng Hoa 3 để dễ dàng thông thương qua
lại… Tới hôm nay, phi vụ định mệnh đã làm cho chúng tôi âm dương
cách biệt, sau giờ phút tìm kiếm nhưng bặt tăm vết tích. Cuối
cùng tôi cũng đành phải bay hợp đoàn với Thiếu Tá phi tuần
trưởng Bùi Văn Minh, làm vòng chào vĩnh biệt bạn về trời, về với
Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi.
Trở lại đơn vị mà lòng tôi buồn vời vợi, buồn mất bạn, buồn tợ
như chim bằng gãy cánh! Năm sau, ngày 26 tháng 01 năm 1975, thì
định mệnh lại đến với nghiệp phi hành của tôi. Ngay từ sáng sớm
hôm ấy sau phiên họp thường nhật phi đoàn vừa dứt, thì điện
thoại đỏ trên bàn sĩ quan trực reo vang, lệnh hành quân của phi
vụ Thần Báo 01 ban ra, gồm có phi tuần trưởng Thiếu Tá Mai Văn
Hiền danh hiệu Thần Báo 11 và tôi, phi tuần viên danh xưng Thần
Báo 12.
Cũng như thường nhật, vừa nghe lệnh là chúng tôi tới bàn sĩ quan
trực, lật sổ ghi nhận tọa độ, lập phi trình, lấy điều kiện thời
tiết và tình hình địch bạn, rồi vào phòng dù lấy nón áo súng đạn,
sắp xếp hành trang lên đường ra trận đánh giặc.
Nhưng hôm nay, nhìn qua mục tiêu Thiếu Tá Hiền – đương kiêm sĩ
quan đặc trách hành quân của phi đoàn – ân cần dặn tôi: "Bản à,
xuống đánh cẩn thận, phòng không mạnh đó!" Tôi nhìn anh với cái
nhìn cảm phục và biết ơn, rồi tôi trả lời anh bằng cái gật đầu
và mỉm cười.
Anh Hiền cũng biết vì kể từ ngày Xi chết, tôi thường có những
phi xuất bay thấp săn địch và liều mạng, bởi thế nên anh thường
nhắc tôi bay bổng cẩn thận, mỗi khi có chuyến đi đánh giặc chung
với anh. Có lần, tôi bị hỏa tiễn tầm nhiệt rượt đuổi, anh Hiền
gọi tôi bắn trái sáng, và tôi đã hạ gục loại đầu đạn SA-7 ác
nghiệt này.
Thông thường, mỗi khi chúng tôi tiến đánh mục tiêu, thì địch
quân lại thường nhắm bắn phi cơ số 2, đang khi vòng bom thả đầu
của phi cơ số 1 vừa rơi khiến chúng còn đang bàng hoàng tìm nơi
ẩn náu, bởi thế chúng chưa kịp bắn phi cơ số 1.
Sáng nay, phi trình nửa giờ cất cánh của chúng đang tôi nhắm
hướng Tây Ninh, và bình phi ở cao độ 15 ngàn bộ, tức bay cao hơn
đỉnh núi khoảng 5 ngàn… Bỗng nghe phi cơ quan sát điện đàm và
hướng dẫn chúng tôi vào đánh mục tiêu, chân núi Bà Đen.
Từ trời cao chúng tôi thấy khói màu bốc lên tại khu Điền Long,
và quan sát viên cho biết tăng T-54 của Cộng quân đang tiến lại
từ hướng nhà máy đường, mái ngói đỏ phía bắc khoảng 100 bộ.
Chúng tôi vừa định điểm tọa độ và mục tiêu địch, rồi làm vòng
đánh bom, thì ít phút sau phòng không của địch đã rải lên trời
nổ bung ra như nấm.
Phi cơ số 1 vừa thả bom, nhìn theo mục tiêu của anh Hiền vừa
đánh, tôi nhận ra đoàn tăng T-54 xạ kích vừa xong, thì chúng lại
ẩn náu vào bụi cây ven rừng. Nhưng vị trí ẩn nấp khôn lanh ấy đã
bị tôi phát giác ra xe giặc, và vòng bom phi cơ số 2 đã đánh
trúng mục tiêu, khiến chiếc tăng được nhận làm của lễ toàn thiêu.
Thời gian phục vụ Thần Báo chẳng mấy chốc mà đã hai năm kỷ niệm
ngày về của tôi, và mười năm kỷ niệm ngày thành lập phi đoàn.
Tôi đã có hàng ngàn giờ bay trên phiếu phi hành, có hàng trăm
phi vụ oanh kích trên vùng trời địch đóng, không riêng lãnh thổ
Việt Nam mà còn những không tạc trên những bầu trời Hạ Lào, Cao
Miên với bao hiểm nguy vào sinh ra tử… nào là đột phá đường mòn
Hồ Chí Minh, tấn công Cục R, san bằng địa đạo Củ Chi, đập tan
thủ đô Lộc Ninh... những địa danh mà Cộng quân tưởng chừng là
những nơi an toàn và bí mật.
Nhưng sau hai phi xuất hành quân trong ngày hôm ấy, một trận ở
Điền Long núi Bà Đen và một trận ở Long Tần núi Mây Tào, thì phi
vụ thứ ba, tôi đã bị bắn rơi và trọng thương trong trận Klong
Khot, một trận đánh nhằm ngăn chận đường tiến quân của "Công
Trường số 9 bộ đội Bắc Việt" xâm nhập vào miền Nam qua ngõ Hạ
Lào và Cao Miên.
Một lần nữa, anh Hiền và tôi lại cùng thực hiện phi vụ thứ ba
trong ngày. Đúng lúc 3 giờ chiều hôm ấy, tôi vừa đánh xong vòng
bom thứ hai vừa dội xuống Trà Teng, và trong lúc tăng tốc để lấy
lại cao độ thì tôi bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 bắn trúng máy cánh
trái, tàu nổ tung và tôi bị thương nên đã phải nhảy dù.
Nhẩy Dù
Thời gian bao lâu thì tôi hoàn toàn không biết, nhưng khi dù mở
và bay lơ lửng trong không gian lành lạnh làm cho tôi hồi tỉnh.
Tôi bắt đầu cảm thấy thấm mệt, có lẽ máu trong những vết đạn
trên người cũng đang nhỏ rơi, và nhìn lên nóc dù tôi cũng đã đếm
được nhiều vết đạn mà địch quân đang bắn, nổ lỗ chỗ trên cánh dù
hoa.
Nhìn xuống mục tiêu, tôi cố gắng lái dù chạy theo chiều gió để
tránh xa địch quân chừng nào hay chừng nấy. Có lẽ tôi cũng đã
chạy xa lắm, rồi tìm một điểm đáp an toàn trong khu rừng vắng
trên phần đất Cao Miên, cách xa biên giới Tây Ninh khoảng một
trăm cây.
Khi đáp xuống thì cánh dù của tôi lại bị cành cây cao máng lại,
khiến tôi treo cao trên mặt đất. Tôi lần tay trong áo lấy cuộn
cứu hộ nối dài dây dù để hạ người xuống đất an toàn, rồi cởi
giây dù và chui vào bụi cây rừng ẩn nấp trước khi cảm thấy mình
sắp sửa ngã gục.
Rừng hoang vắng, những tiếng cú gọi hồn rít lên xa xa, tôi hạ
máy vô tuyến liên lạc đang cầm trên tay xuống một bên, rồi đặt
đè trên những chiếc lá khô xào xạc. Rút cây súng ngắn nạp đạn
rồi đặt cạnh bên máy vô tuyến, tôi bắt đầu mở ba lô hành trang
lấy sách hướng dẫn mưu sinh thoát hiểm ra và đọc ngấu nghiến cho
nhớ, rồi lấy thuốc cá nhân ra uống, băng bó những vết thương rỉ
máu, ăn chút lương khô đề lấy lại sinh lực...
Nhìn dòng chữ nhắn gởi trên sách, khi bị thương thì máu trong
mình đổ ra, và cũng là lúc khát nước nhất, mà uống nước nhiều
thì khó cứu sống. Tôi mỉm cười nhìn những giòng chữ đậm nét trên
trang mưu sinh thoát hiểm của mình.
Ngoài kia trời tối dần, màn đêm buông rủ làm tắt lịm, những
tiếng beo hú cọp gầm như bao oan hồn hiển hiện… sau bức điện
morse đánh đi, các bạn hoa tiêu của tôi khắp nơi tìm đến nào là
trực thăng, nào là F5, nào là A37 đánh bom và thả trái sáng, tạo
vành đai an toàn cho tôi trú ẩn qua đêm. Vì đạn bắn như mưa, nên
mãi tới sáng mới được trực thăng bốc lên, tải thương về tiền đồn
biên giới Trà Teng, là nơi tôi đánh bom hôm trước để băng bó vết
thương.
Trên trực thăng tôi bị ngất xỉu nhiều lần vì mất máu, nhưng
những lúc tỉnh thì lại khát nước. Lúc tôi khát và thấy có người
cầm bông thấm nước từ bidon, rồi đặt trên môi tôi.
Có những lúc quá khát tôi nảy ý định muốn lấy chiếc bidon nước
trước mặt mà tu. Nhưng bị dựt lại và tôi mở mắt ra nhìn thì thấy
ông là tướng hai sao.
Với tác phong quân kỷ, tôi tự nhiên dơ tay chào theo nghi thức
quân cách, nhưng giờ đây cánh tay mình đang bị cột chặt vào
bangka. Ông tướng nhìn tôi mỉm cười gật đầu vì ông đã hiểu ý
muốn của tôi, đó chính là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh
Vùng 4 Chiến Thuật, người sau đó tuẫn tiết khi Sài Gòn thất thủ.
Trực thăng của Thiếu Tá Đức đang lái lượn vòng tìm bãi đáp, tôi
cựa quậy và liếc nhìn xuống vai áo trận rách nát của mình… thấy
vật lạ, ba bông mai vàng mới toanh, cấp bậc đại úy đã được Thiếu
Tướng Nam tuyên thăng tại mặt trận. Ông gắn cho tôi lúc còn bất
tỉnh… và thấy tôi ngơ ngác nhìn, ông nói, “Nằm nghỉ đi em, Thần
Báo số 2.” Một kỷ niệm đẹp, đáng ghi nhớ trong đời binh nghiệp
của tôi.
Có lẽ đã sáng đẹp nhất trong lòng tôi cho tới ngày hôm nay, đó
là hình ảnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người thanh sát mặt
trận khi tôi đánh bom, và sau khi tàu tôi trúng đạn, phải nhảy
dù… Vị Tư Lệnh của Quân Đòan IV này đã túc trực 24/24 trên trực
thăng quan sát mục tiêu chiến trường và tọa độ mà tôi đang ẩn
náu… cho tới khi cứu được tôi.
Đó là kỷ niệm sống mãi trong tôi, và tôi đã khóc thương Thiếu
Tướng Nam khi nghe tin người sĩ quan tùy viên của ông thuật
chuyện lại với tôi trong trại tù cải tạo.
Qua những tấm gương khí tiết oanh liệt như Thiếu Tướng Nguyễn
Khoa Nam, và hoa tiêu khu trục của Phi Đoàn Thần Báo như Trung
Tá Huỳnh Văn Vui, Thiếu Tá Nguyễn Minh Sơn, Thiếu Úy Nguyễn Văn
Xi, Thiếu Úy Phan Văn Mỹ Anh, Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử, Thiếu Úy
Nguyễn Trường Thới đã anh dũng chiến đấu và hiến thân để bảo vệ
cho nền tự do dân chủ Việt Nam, đã thúc dục lòng tôi luôn suy
xét về việc thất trận của ngày 30 tháng 04 năm 1975, để tìm ra
những nguyên nhân gây ra mất nước, và từ những chỗ mất ấy mà
chúng ta có thể khởi công đi tìm…
Cũng bởi thế mà tôi cảm nhận rằng, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đã
thiếu vắng một nền tảng triết thuyết dân tộc làm căn bản trong
công cuộc xây dựng kiến thiết quốc gia, nêu cao chính nghĩa dân
tộc, và khai triển rộng rãi sách lược quốc phòng nhằm bảo vệ đất
nước một cách thực tế, vận động toàn dân toàn diện trong việc
giữ nước, phát triển tự do dân chủ một cách vững chắc, minh chính.
Tổ chức và lãnh đạo Xã Hội Đồng Bào theo biểu tượng Một Bọc Trăm
Con của Chính Thuyết Tiên Rồng.
Nhìn lại buổi sáng ngày ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc 10 giờ tại
phi trường Bình Thủy, chúng tôi nhận lệnh của Phòng Hành Quân
Chiến Cuộc và thực hiện phi vụ oanh kích ngay vành đai khu vực
an ninh phi trường, vì tin tức ghi nhận Cộng quân đã tràn qua Lộ
Tẻ Ba Xe. Khi vác dù ra phi đạo lấy tàu đánh giặc, thì rất nhiều
anh em quân nhân các cấp trong Sư Ðoàn 4 Không Quân lúc ấy đã
tràn ra dọc theo bãi đậu và cất tiếng hoan hô cổ vũ chúng tôi.
Khi cất cánh thi hành công tác, tôi mở máy nghe lệnh đầu hàng
của Tổng Thống Dương Văn Minh mà nước mắt của mình tuôn trào.
Ôi tình quê hương!
Tình tuyệt vời và tuyệt vọng!
Tình đẹp và
buồn làm sao!
Một nỗi buồn trào dâng và len lén trong tim người
lính trẻ với Chuyến Bay Định Mệnh.
Video 2: Thiên Hoàng
K2
Phạm
Văn Bản lãnh thưởng Huân Chương
Danh Dự Quilts Of Valor
của Liên Bang Hoa Kỳ do Chính Quyền Tiểu Bang Washington trao
tặng