Xin kính mời bạn đọc CON NGƯỜI THỜI ĐẠI
do Con Cháu Tiên Rồng
xuất bản năm 2022
&
KINH xuất bản năm 2023
Thời
Đại Việt Nam
Vào khoảng năm 2879 năm
trước Tây lịch, Quốc Gia Việt Nam đã trải qua nhiều bước thăng
trầm vinh nhục, bị người Hoa đánh đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt
rốn trên vùng Đất Tổ tại miền Hồ Động Đình bên giòng Sông Dương
Tử… Rồi từ đó Việt Nam đã phải di chuyển để mở mang bờ cõi về
Phương Nam và tính tới hôm nay là 4903 năm (2879+2024=4903) theo
như Bản Đồ Việt Nam nêu trên.
Những chiến thắng oai hùng trong
bao ngàn năm dựng nước và giữ nước. Những sáng tạo tuyệt vời
trong công cuộc xây dựng xã hội và phát triển đất nước như Chính
thuyết Tiên Rồng và cơ cấu tổ chức Làng Nước là những tuyệt tác
chính trị vô song của Tổ Tiên Việt Nam. Do đó Quốc Tổ và Hồn
Thiêng Dân Tộc đã góp phần mình vào nền văn minh xây dựng và
phát triển Đông Phương.
I. Việt Nam Văn Minh
Những di tích tiêu biểu lừng danh
như rìu đá Xuân Lộc, Bàu Tró, Đa Phúc…với công cuộc phát minh Trống
Đồng Ngọc Lữ hay Thạp Đồng Đào Thịnh (xem hình) với màu sắc
tinh xảo, khoa học mỹ thuật
được sáng tạo vào Thời Đại Săn Hái (Pre-History). Tiếp đến Thời Đại Nông Nghiệp
(Agricultural Age) cũng có nhiều phát minh với những khoa học kỹ
thuật cao như canh tác, đóng thuyền, làm đồ gốm, thêu dệt vải
lụa, trồng bông của người Việt Nam chúng ta lừng danh trên thế
giới.
Quả thật lịch sử Việt Nam trong
hai Thời Đại Săn Hái và Nông Nghiệp, Tổ Tiên chúng ta đã không
thua kém bất cứ ai, vì nhờ vào những sáng tác
Định Chế Làng Nước, tức
là một thể chế chính trị Dân Chủ
Việt Nam được xây dựng trên tinh thần
Đồng Bào của
Một Bọc Trăm Con trong
Chính Thuyết Tiên Rồng. Do đó Dân Tộc Việt Nam có
được sống tự do tự chủ, tự túc tự cường, dân chủ tự quyết… Tổ
Tiên đã áp dụng thể chế “luật nước lệ làng” và tạo nên một xã
hội kỷ cương, an vui, hạnh phúc và thịnh vượng hơn bất cứ thể
chế nào khác của các quốc gia lân bang.
Ví dụ, Vua Lê Thánh Tôn, chẳng
những đã ban hành Bộ Luật Hồng Đức, mà còn công bố thêm 24 điều
Lệ Nước và Lệ Làng để giúp cho giảm bớt nghiêm trị của pháp luật
và giúp dân ít bị trị.
II. Việt Nam Bị Đô Hộ
Nhưng tiến qua Thời Đại Công
Nghiệp (Industrial Age) khi người Tây Phương mang vũ khí và công
kỹ nghệ đi xâm chiếm thuộc địa để khai thác tài nguyên thiên
nhiên, thì hệ thống Làng Nước Việt Nam bị lâm nạn đô hộ. Bởi vì
vua quan Triều Chính Việt Nam đã thiếu khả năng Tổ Chức và Lãnh
Đạo, không biết nhận định thời đại và nhu cầu để áp dụng khoa
học kỹ thuật vào việc xây dựng và phát triển đất nước như Nhật
Bản là một quốc gia điển hình.
Do đó khi thế giới tiến sang thời
đại công nghiệp, thì Việt Nam lại trở thành một vị trí chiến
lược trên trục đường giao thông thương mại, chạy dài từ Hải Cảng
Vladivostok của Nga xuyên qua Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Đài
Loan, đến Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương,
Ấn Độ… tới các nước Hải Đảo ở Thái Bình Dương và tận cùng là
Châu Úc. Việt Nam là một bao lơn trông ra Thái Bình Dương, là
một vị trí chiến lược, là một chiến trường so găng của Thời Đại
Công Nghiệp, cho nên các cường quốc đã mang toàn bộ vũ khí tân
kỳ và hiện đại tới Việt Nam làm chiến trường mà thử nghiệm khả
năng sáng chế khoa học quốc phòng của họ, đang khi những lãnh tụ
Việt Nam lại thơ ngây ấu trĩ chính trị, chỉ biết say mê quyền
lực danh vọng mà thiếu kiến thức, thiếu nghiên cứu, thiếu học
hỏi, thiếu phát minh về sách lược chính trị bảo vệ và xây dựng
Dân Nước.
Trải qua hai thời đại văn minh
nhân lọai như săn hái và nông nghiệp thì dân tộc Việt Nam đã
không thua kém bất cứ ai, và càng ngày lại được ngành nhân chủng
học chứng minh là Lịch Sử Việt Nam có nhiều nét đặc trưng với
hơn bốn nghìn năm văn hóa và văn hiến (4903 năm). Nhưng tại sao
Việt Nam không/ hay chưa thành công trong việc xây dựng và phát
triển đất nước ở Thời Đại Công Nghiệp? Tiếp đến nhân loại đang
bước theo làn sóng văn minh mới của Thời Đại Tín Nghiệp
(Information Age), thì Việt Nam chúng ta phải làm gì, ra sao và
đi đâu?
Có nhiều nguyên nhân đã dẫn tới
thất bại trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam, từ kinh tế
cho tới các phương diện sinh hoạt của toàn dân… nhưng căn bản
nền tảng là vẫn tự Con Người. Chúng ta đã đánh mất "Con Người
Đồng Bào” của mình, lãng quên Chính Thuyết Tiên Rồng của Dân Tộc
Việt Nam… và chính mình lại bị tha hóa, bị đầu độc, bị tiêm
nhiễn bởi những trào lưu cực đoan, tư xngoại lai của Phương Bắc
Phương Tây mà xa nguồn lạc gốc... khi các học giả danh nhân khoa
bảng đều trích dịch tài liệu sách vở người Hoa Hán mà mang về
giảng dạy cho chúng ta học hành. Ví dụ Kiều của Văn Hào Nguyễn
Du sao lục Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập của Trung Quốc.
Rồi cứ thế cho nên bao trăm năm
qua, mạch sống chính trị Dân Tộc Việt Nam chúng ta đã bị bế tắc,
bị chà đạp, bị xuyên tạc, bị đoạn tuyệt và khiến cho tòan dân
không còn theo kịp kiến thức thời đại. Nói cách khác, chúng ta
đã thiếu một lớp người tổ chức lãnh đạo, điều hành quản trị một
thực thể với Kiến Thức Thông Toàn (Knowledge & Wisdom).
Khi người Pháp mang vũ khí công
nghệ tới xâm chiếm Việt Nam, tìm thị trường tiêu thụ và khai
thác thuộc địa, thì dân tộc ta vẫn còn đang sống trong thời đại
nông nghiệp và ít ảnh hưởng tới đời sống công nghiệp. Mặt khác,
thời đại công nghiệp đã biến Việt Nam thành vị trí chiến lược và
tranh chấp công nghiệp của thế giới… phát triển tới cao điểm là
thập niên 70. Khi Hoa Kỳ và đồng minh đạt được thỏa thuận kinh
thương với Cộng Sản, thì họ giã từ vũ khí công nghiệp để bước
sang trào lưu mới, đợt sóng mới, thời đại mới – đợt sóng thứ ba
(third wave) – là Thời Đại Tín Nghiệp, từ khi Hoa Kỳ thành công
trong việc phát minh máy điện tóan IBM vào năm 1953.
Bởi thiếu tầm nhìn chính trị
thời đại/ hoặc nhìn trật thời đại, cho nên nhiều lãnh tụ, nhiều
tổ chức đảng phái của các đảng phái Việt Nam đã chỉ dùng cái
bảng giá trị thời đại nông nghiệp mà mang ra hành xử, thì xin
hỏi làm sao người Việt lại có thể thành công trong việc xây dựng
và kiến thiết đất nước? Đang khi ở thời đại công nghiệp, cơ
xưởng sản xuất hàng loạt theo hệ thống giây chuyền và tạo ra
vật dụng hàng ngày cho dân. Và mọi người được tự do tiêu dùng,
không khan hiếm, không đầu cơ tích trữ… bởi thế cho nên dân
chúng đã mang tâm trạng dư thừa trong xã hội của họ.
Chính nhờ tâm lý dư thừa, mà các
mặt sinh sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục mới
phát triển ổn định và điều hòa. Con người từ đó không tham lam,
không đánh cắp, không lấy của công làm của tư như các thành viên
của chế độ độc tài chuyên chế hiện hành, vì do bởi tâm lý thiếu
hụt, tiết kiệm mà ra mà có.
Người Tây phương có kinh nghiệm,
có khả năng nghiên cứu, học hỏi về tổ chức, điều hành quản trị
lãnh đạo thực thể đó đã trải qua hơn ba trăm năm phát triển công
nghiệp với nhiều hệ thống tổ chức khác biệt. Càng văn minh, càng
phát triển lại càng có nhiều nhu cầu và hệ thống tổ chức mới
được sản sinh. Hệ thống tổ chức là guồng máy gồm nhiều người,
nhiều tài năng, nhiều máy móc, nhiều tiền bạc chuyển động, hoạt
động.
Bởi thế, hệ thống tổ chức lãnh
đạo, điều hành quản trị là phần tinh thần và đã tạo ra hệ thống
cấu trúc họat động thành công, nhưng ở bề ngoài chúng ta chỉ
nhìn phần vật chất, phần kết quả mà ít nhận thấy phần vô hình và
tối quan trọng của tổ chức tạo ra từ ở bên trong. Những khả năng
lãnh đạo điều hành này là cả một tiến trình tích lũy kinh nghiệm
bản thân, được di truyền/ hay linh huấn qua nhiều thế hệ về lý
thuyết và thực hành tổ chức, mà nhũng người ở phần bí mật bên
trong đó đang thừa hưởng.
III. Kiến Thức & Thông Toàn
Chúng ta có thể hiểu về cơ khí,
có thể xử dụng máy móc bằng cách nghiên cứu qua sách vở, nhưng
nếu chỉ đọc sách mà thôi thì không thể hiểu về người điều hành
lãnh đạo một tập thể chính trị. Sự khác biệt giữa sự hiểu biết
về khoa học; ví dụ người điều khiển chiếc Boeing 787 phản lực
khổng lồ thì khả năng huấn luyện dễ dàng, nhưng so với khả năng
người điều hành công ty Boeing thì lại khác biệt, vì khả năng tổ
chức và lãnh đạo lại đòi hỏi phải có một truyền thống thực hành
lâu đời; do đó, khả năng nhận thức triết lý khoa học, chỉ hỗ trợ
một phần trong việc điều hành lãnh đạo, chớ không thể thay thế
tòan bộ khả năng tổ chức lãnh đạo, điều hành quản trị mà đòi hỏi
di truyền.
Theo lý thuyết, những nước tiến sau có cái lợi là khỏi lần mò,
tìm tòi, nghiên cứu, phát minh mà chỉ thừa hưởng những sáng tạo,
phát minh sẵn có của các nước tân tiến. Nhưng điều này chỉ đúng
về phương diện vật chất, khoa học kỹ thuật, chớ chưa phải là đáp
số của sự tiến bộ thuộc khả năng và truyền thống của con người.
Các dân tộc chậm tiến chưa phát triển được khả năng tổ chức lãnh
đạo, điều hành quản trị vì phải có
Liên Thuộc Tính: Interpersonal
và Sáng Tạo Tính: Creative.
Bởi thế các quốc gia chậm tiến đã thiếu nhân tài trong các lãnh
vực tổ chức lãnh đạo, điều hành quản trị từ nền tảng hạ tầng cơ
sở cho tới trung ương quốc gia.
1.
Thời Đại (Age)
Thời đại là khoảng cách thời gian
mà nhân loại đang sống và trải qua, được đánh dấu bằng những
thay đổi quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo
dục, quân sự quốc phòng. . . và canh tân cải tiến đời sống con
người, gia đình, dân tộc và xã hội quốc gia. Những nhà khảo cổ
thời trước đã căn cứ vào dụng cụ sản xuất chiến đấu mà đặt tên
cho các thời đại như đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. . . nhưng người ta
lại đặt ra câu hỏi, điều gì đã làm cho con người phát minh ra
cái búa đá, lưỡi cày đồng, thanh kiếm sắt? Có phải chăng là do
sức lực, trí tuệ, tâm huyết mà sáng chế ra nó?
Ngày nay, người ta chú trọng về
phương thức sản xuất hơn là dụng cụ sản xuất như khi xưa, đồng
thời phân biệt ra nhiều lãnh vực thời đại như săn hái, nông
nghiệp, công nghiệp hay tín nghiệp:
- Săn Hái (PreHistory:
Tiền Sử) được ước tính có khoảng 2 triệu năm.
- Nông Nghiệp
(Agricultural Age) có khoảng 10 ngàn năm, bắt đầu từ 8000 năm
trước Tây lịch. Nguyên liệu sản xuất của đợt sóng thứ nhất gồm
ruộng đất và hạt giống (land & seeds).
- Công Nghiệp (Industrial
Age) có khoảng 3 trăm năm nay, được tính từ năm 1750 sau Tây
lịch. Nguyên liệu sản xuất của đợt sóng thứ hai cũng thay đổi,
nhu cầu thời đại là Vốn Liếng và Nhân Công (Capital & Labor).
- Tín Nghiệp (Information
Age) là đợt sóng thứ ba được khởi đầu vào năm 1953. Nguyên liệu
sản xuất cũng hoàn toàn thay đổi, nhu cầu thời đai là Kiến
Thức và Thông Toàn (knowledge & Wisdom).
Mỗi thời đại, con người đã tạo ra nơi trú ngụ để sinh hoạt:
- Hang động của thời đại săn hái
- Túp lều hay căn lán (ngôi nhà thật dài) bộ lạc
- Ngôi làng của thời đại nông nghiệp
- Đô thị của thời đại công nghiệp
- Đại đô thị của tiểu bang và liên bang
- Đô thị kỹ thuật cao trong thời đại tín nghiệp ngày nay.
Mỗi thời đại, dân số của nhân loại cũng thay đổi và gia tăng
khác biệt:
- Trăm ngàn người của triệu năm trước
- Triệu người của vài chục ngàn năm trước
- Mười triệu người của ngàn năm trước
- Một tỷ người của trăm năm trước
- Mười tỷ người của thiên niên kỷ thứ ba.
So sánh dân số của nhân loại chúng ta thấy dân số Việt Nam cũng
thay đổi và gia tăng:
- Mười ngàn người của triệu năm trước
- Trăm ngàn người ở thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch
- Triệu người ở thế kỷ thứ 10
- Mười triệu người vào đầu thế kỷ thứ 20
- Trăm triệu người của thế kỷ ngày nay.
2. Vận Tốc Thời Đại
Mỗi thời đại của con người đều có một vận tốc riêng. Vận tốc
thời đại được căn cứ vào vận tốc liên lạc và di chuyển, để làm
thay đổi đời sống con người và xã hội. Vận tộc của thời đại sau
nhanh hơn vận tốc của thời đại trước.
Theo mô hình trên, người ta lấy thời gian của thời đại chia cho
đoạn đường 10,000 thước thì sẽ thấy nhịp tiến của nhân loại:
- Vận tốc tiến trình của con người trong thời đại săn hái với 2
triệu năm, mỗi năm tiến được 5 ly.
- Đợt sóng thứ nhất, thời đại nông nghiệp với 10 ngàn năm, mỗi
năm di chuyển là một thước, tức vận tốc thời đại này nhanh hơn
thời đại săn hái gấp 200 lần.
- Đợt sóng thứ hai, thời đại công nghiệp với 300 năm, di chuyển
nhanh hơn 33 lần thời đại nông nghiệp.
- Đợt sóng thứ ba, thời đại tín nghiệp từ năm 1953 tới nay, di
chuyển là siêu tốc, siêu âm, siêu sóng, siêu sáng!
Những dữ kiện vừa kể là số trung bình của giữa thời đại, vận tốc
khi chuyển từ thời đại cũ sang thời đại mới thì chậm, nhưng cuối
thời đại ấy thì lại nhanh hơn. Do đó chúng ta có vận tốc tiến
trình văn minh nhân loại, càng về thời đại sau lại càng nhanh
hơn:
- Tốc độ ốc bò của triệu năm trước.
- Rùa bò của trăm ngàn năm trước.
- Đi bộ của chục ngàn năm trước.
- Cỡi ngựa, chèo thuyền của ngàn năm trước.
- Lái xe, hỏa xa, tàu thủy của trăm năm trước.
- Đi phi cơ, phản lực cơ của vài chục năm trước.
- Bay phi thuyền không gian sắp tới.
Trải qua các thời đại, con người di chuyển với những tốc độ:
- Đi bộ 5 cây số/ giờ của thời đại săn hái
- Đi ngựa 30 cây số/ giờ, hay đi thuyền 10 cây số/ giờ của thời
đại nông nghiệp
- Đi xe 60 cây số/ giờ của thời đại tiền công nghiệp
- Đi phi cơ 600 cây số/ giờ của thời đại hậu công nghiệp
- Đi phi thuyền 30 ngàn cây số/ giờ của thời đại tín nghiệp.
Người ta có thể nhìn thấy vận tốc của con người trên địa cầu
hiện nay với những phương tiện:
- Nhiều nước châu Phi còn đang đi bộ
- Số nước châu Á cũng còn đang đi ngựa, đi thuyền
- Số nước đang đi xe, đi tàu hỏa, đi tầu thủy
- Số nước đi phi cơ phản lực, xe điện
- Ít nước đi phi thuyền không gian.
Lịch sử của các nền văn minh lớn thường ghi nhận con người lập
quốc vào khoảng bốn, năm ngàn năm. Do đó xuất hiện các đơn vị
chính trị trong mỗi thời đại:
- Gia đình, từ 1 tới 3 triệu năm, sống ở trong hang động
- Bộ lạc, từ 10 ngàn đến 1 triệu năm
- Làng xã, từ 5 ngàn đến 10 ngàn năm
- Làng nước, từ 2 ngàn đến 5 ngàn năm
- Quốc gia, từ 2 trăm đến 2 ngàn năm
- Tiểu bang, liên bang, quốc tế có từ 2 trăm năm nay
- Liên thị, toàn cầu
- Liên hành tinh.
3. Đức Tính Thay Đổi Qua Thời Đại
Đọc sách cổ thư của Phương Đông hay Phương Tây cách nay hai ngàn
năm, thời đó cha mẹ đã trách mắng con cái của mình rằng: chúng
bị hư hỏng. Nếu chúng ta thời nay mà đem so sánh lời các cụ thời
xưa, khi bị cha mẹ khiển trách thì đều trở thành hư hỏng sao? Và
rồi ngày nay, nhiều người cũng đang lập lại điệp khúc hư hỏng
như nghìn xưa với thế hệ con cháu. Vậy hư hỏng là gì? Phải chăng
là thế hệ trước nhìn thế hệ sau để phán xét theo quan điểm của
cha anh đối với con cháu của mình.
Vì cấu trúc xã hội thay đổi cho nên gía trị cuộc sống của mỗi
thời đại đều khác biệt nhau. Ví dụ đức tính ăn thịt người của
thời đại săn hái, lại trở thành tội ác của thời đại nông nghiệp.
Đức tính có nhiều vợ để sinh sản nhiều con cái, nhiều nhân công
phục vụ trong thời đại làng nước nông nghiệp, lại trở thành lạc
hậu với thời đại liên bang công nghiệp. Tổ chức triều đình hàng
dọc theo nguyên tắc tôn tri trật tự của thời nông nghiệp, lại
trở thành độc tài, lỗi thời đối với cấu trúc chính trị của xã
hội tự do dân chủ ngày nay.
Riêng tại Việt Nam, các Buôn Thượng ở tỉnh Darlac vào đầu thế kỷ
này, nếu người mẹ có con nhỏ còn bú mà mẹ bị chết, và trong buôn
không còn có người mẹ nào có sữa để nuôi đứa bé, thì người cha
sẽ đè cho con mình nghẹt thở để cùng chết và chôn xác chung với
mẹ. Nếu để đứa bé sống, chắc chắn em nhỏ cũng phải chết vì thiếu
sữa bú.
Cho nên việc giết con còn bú mà chôn theo mẹ là hành động thương
con, là nhân đạo, là hợp tình hợp lý của thời đại săn hái. Và
hình thức “nhân đạo” này cũng đang được đề nghị áp dụng cho
những bệnh nhân vô phương cứu chữa để giúp họ không kéo dài
những ngày hành hạ thân xác trong tình trạng vô sinh và đeo ống
thở. Tóm lại, nhu cầu của con người và điều kiện sống tạo ra
bảng gía trị của thời đại.
IV. Yểm Trợ Việt Nam
Thế giới đang thay đổi theo sự phát triển của dân số, nhu cầu
thời đại, khoa
học kỹ thuật, và phương tiện vận chuyển. Phương tiện di chuyển
phát triển,
cũng đồng
nghĩa với sự thu nhỏ trái địa
cầu này về mọi phương diện từ
tổ chức lãnh đạo
đến chính trị kinh
tế quân sự... Theo
dự trù khoảng vài thập niên tới phương tiện di chuyển thông dụng
của loài người có thể đạt tới tốc độ 25,000 cây số/ một giờ.
Với phương tiện di chuyển nhanh chóng và hệ thống liên lạc vượt tốc
độ siêu âm,
siêu sóng
siêu sáng của điện
lưới toàn cầu, chắc
chắn sẽ đưa nhân loại tới một thể chế chính trị tân tiến hơn,
để phù hợp với tình người trong tương lai gần,
mà Hoa Kỳ có thể gọi là Tân Dân Chủ (The New Democracy), hơn
nữa sức
sống kinh tế của quốc gia Hoa Kỳ ắt trở thành mẫu mực cho sức
sống kinh tế toàn cầu.
Vì Thời Đại Tín Nghiệp sẽ mang lại một nền kinh tế tín nghiệp,
văn minh tín nghiệp, xã hội tín nghiệp, quân sự tín nghiệp… đặt
nền tảng trên sự phục vụ con người, và đặt nhu cầu con người lên
trên tất cả. Ngoài nhu cầu của thân xác, con người còn có những
nhu cầu của trí óc, của tâm linh, của tuệ linh
bao gồm như sau:
- Thân lực sinh động
- Trí năng tinh biến
- Tâm tình thông hiệp
- Tuệ linh vĩnh cửu
Những nhu cầu này sẽ làm căn bản cho nền kinh tế tín nghiệp, một
khi con người đã có khả năng nhận thức những nhu cầu của nhau và
biết cách phục vụ cho nhau. Bởi thế, một ngày không xa người
Việt Nam sẽ tự mình giải thoát khỏi ách độc tài toàn trị,
vì không ai có thể lãnh đạo quốc gia hay phát triển xã hội với
những ý tưởng lỗi thời, hoặc phủ nhận gía trị thời đại của nhân
loại.
Trước viễn tượng của một tương lai tươi sáng đó, chúng ta thử
phác họa một chương trình phục hồi và phát huy sức sống Tiên
Rồng của dân tộc Việt Nam trong một xã hội đồng bào, xã hội anh
em, xã hội nhân bản với những nguyên lý thân thương và bình đẳng
của Một Bọc Trăm Con trong truyện tích Con Cháu Tiên Rồng.
Ở đời mọi sự đều thay đổi. Thay đổi theo tốc độ thời gian, từ
con người cho tới những nhu cầu cuộc sống hay cấu trúc xã hội,
biên cương quốc gia, các khối chính trị trên thế giới.
Tất cả đang biến chuyển mỗi ngày một nhanh chóng, đang khi Việt
Nam của chúng ta như ngừng lại, nếu không nói là đất nước đã gặp
nạn nội xâm làm băng hoại, tự do bị cướp đoạt, nhân quyền bị chà
đạp, và nền dân chủ truyền thống của Dân Tộc Việt bị thủ tiêu.
Hầu hết mọi người Việt Nam chúng ta đều có lòng yêu nước thương
dân, và mong muốn được góp phần của mình để thực hiện việc
chung, mong sao cho dân giàu nước mạnh. Thực tế Cộng Đồng Người
Việt Hải Ngoại có tiềm năng yểm trợ Đồng Bào trong việc xây dựng
và kiến thiết Việt Nam trở nên phú cường, thịnh vượng trong Thời
Đại Tín Nghiệp.
1. Người Việt Hải Ngoại có đội ngũ cán bộ trẻ, có khả năng và
nhiệt tâm nhiệt huyết trong nhiều lãnh vực. Đặc biệt những người
này có công ăn việc làm, và tài sản ở nước ngoài, hiểu biết luật
lệ thuế vụ và không mặc cảm, không tranh dành quyền lợi, không
làm giàu bất chính với đồng bào mình trong nước.
2. Người Việt Hải Ngoại sẽ là nhịp cầu nối kết các dân tộc tín
liệu của những quốc gia tự do, dân chủ, nhân quyền và tân tiến
trên thế giới. Với những kiến thức thời đại, cộng với tấm lòng
yêu nước thì những người này sẽ đem hết tài nghệ phục vụ cho
quốc gia dân tộc Việt Nam mà thôi.
3. Người Việt Hải Ngoại sẽ đóng góp tài chánh, hùn vốn hay thành
lập những công ty đầu tư tại Việt Nam với mục đích vừa làm giàu
cho gia đình, lại vừa xây dựng được quốc gia, mà cả vốn lẫn lời
đều tăng mãi tại Việt Nam và làm ích nước lợi dân hơn bất cứ ai
khác. Đó là điều kiện thực tế và hữu ích mà các công ty ngoại
quốc hay thế giới đã không thể có, không thể giúp, không thể làm
được.
4. Người Việt Hải Ngoại là nơi giúp đỡ cho các phái đoàn của
chính phủ Việt Nam trong những việc nghiên cứu thị trường quốc
tế, tìm hiểu nhu cầu của các quốc gia, và có thể đặc trách đại
diện chính phủ ở nhiều lãnh vực. Nhằm mục đích kiến thiết phát
triển Việt Nam, mà chính phủ sẽ giảm được nhiều kinh phí đài
thọ.
Những người Việt này sẽ làm việc không lương vì sẵn có đủ điều
kiện sinh sống. Họ còn có thể xuất tiền túi để giúp nơi ăn chốn
ở và phương tiện di chuyển của các phái đoàn chính phủ Việt Nam
từ trong nước ra ngoài công cán.
5. Người Việt Hải Ngoại sẽ giúp cho sinh viên học sinh du học có
nơi tạm trú, sinh hoạt học hành với ngân khoản chi phí đại hạ
giá, hoặc tặng không nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến
khích sự học hành, cổ động tinh thần yêu nước thương nòi của các
em.
6. Người Việt Hải Ngoại cũng đóng vai trò quan sát và phê bình
chính phủ, đề nghị những giải pháp nhằm canh tân cải tiến xứ sở
trong nhiều lãnh vực, giúp chính quyền Việt Nam có tầm nhìn rộng
lớn hơn để điều chỉnh kịp thời nếu có thiếu sót, khuyết điểm.
7. Tiếp đến chúng ta sẽ bàn thảo về đề tài Người Việt Hải Ngoại
này nhiều hơn trong một chương nói về Xây Dưng Thời Đại Tín
Nghiệp Cho Việt Nam dựa trên nền tảng căn bản Chính Thuyết Tiên
Rồng và cấu trúc tổ chức Hoa Tiên Rồng một cách chính trị khoa
học là Con Cháu Tiên Rồng đúng nghĩa.
V. Kết Luận
Trước mắt chúng ta, Việt Nam trải qua hơn nửa thế kỷ, đã chứng
minh rằng chính quyền độc tài chuyên chế maf lãnh đạo đất nước
thì thất bại vì không hợp thời, hợp thế, hợp tình, hợp lúc. Cho
nên đã bị thất bại về nhiều phương diện, từ giáo dục tới chính
trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, xã hội, ngoại giao.
Thất bại nào cũng phải trả giá rất đắt, bao gồm, một là do những
người cầm quyền bất tài, bất trí, bất lực và bất nhân vì họ chỉ
biết tham lam và tranh đoạt quyền bính. Hai là do những người
như chúng ta lại quá hững hờ và thờ ơ với đại cuộc Giúp Dân Cứu
Nước và Dựng Nước, mà đứng ngoài guồng máy chính quyền để phó
mặc cho dân nước chịu cảnh lầm than, đau thương, cùng khổ và bất
hạnh.
Bởi thế chúng ta cần xây dựng và phát triển một thời đại tín
nghiệp cho Việt Nam. Chúng ta học hỏi được gì vế thất bại của
nhà cầm quyền Việt Nam? Với vận tốc siêu âm, siêu sóng, siêu
sáng của Thời Đại Tín Nghiệp, thế giới tiến nhanh, tiến xa và
lìa bỏ Việt Nam trên tiến trình văn minh phát triển thị xã công
kỹ nghệ cao với nhân tố kiến thức làm vốn sản xuất, sáng chế,
dịch vụ.
Đành rằng cuộc giải phẫu Việt Nam là cần kíp, nhưng Chính Quyền
Mới cần chuẩn bị thay thế với lớp người biết tổ chức và lãnh đạo,
biết điều hành và quản trị một hệ thống phục vụ cho Đồng Bào và
Quê Hương. Những điều quan trọng và thiết yếu hôm nay là mọi
người chúng ta cần bàn thảo học hỏi, cần huấn luyện cho nhau,
cần giúp nhau hoạt đông thăng tiến và chuẩn bị chu đáo với sứ
mệnh Giúp Dân Dựng Nước, Cải Hóa Con Người và Xã Hội Tiên Rồng.
Phạm
Văn Bản tại Hội Trường Thánh Toma Thiện Tukwila, Washington
Xin mời đọc tiếp
1.
Không Tạc Lộc Ninh
2. Đức Tính Lãnh Đao
3.
Truyền Thuyết Nền Tảng
4.
Truyền Thuyết Sống Thực
5.
Truyền Thuyết Phục Hưng
6.
Nguồn Gốc Con Người
7.
Thời Đại Con Người
8. Thời Đại Săn Hái
9.
Thời Đại Nông Nghiệp
10.
Thời Đại Công Nghiệp
11.
Thời Đại Tín Nghiệp
12. Thời Đại Việt Nam
Những tài liệu khác xin mời vào đọc trong
tiết mục:
Tác Phẩm
|