Kính chào quý vị và các bạn đến thăm trang chủ www.phamvanban.org

 

Xin kính mời bạn đọc CON NGƯỜI THỜI ĐẠI

do Con Cháu Tiên Rồng xuất bản năm 2022

 

 

 

&

 

KINH xuất bản năm 2023

 

 

 

 

 

 

Thời Đại Công Nghiệp

(Industrial Age)

 

 

 

      

Thời đại công nghiệp (industrial age) được mở đầu từ khi Isaac Newton (1641 – 1727) phát minh lý thuyết khoa học và vật lý học với nhiều công trình nghiên cứu, đặc biệt là ngành toán học vi phân tích (Calculus). Tiếp đến Vương Quốc Anh ứng dụng lý thuyết Newton trở thành nước công nghiệp đầu tiên là dùng sức kéo của động cơ hơi nước vào những việc như sản xuất nông nghiệp, chế tạo cơ giới, mở mang giao thông, khai thác mỏ quặng, biến chế thực phẩm… để thay thế cho sức lao động của con người và sức kéo trâu bò.

Các nước Pháp, Đức, Ý cũng từ đó mà dùng thành quả khoa học Newton vào công cuộc phát triển kinh tế, từ đó những quốc gia công nghiệp tạo ra đợt sóng văn minh thứ hai đã làm thay đổi toàn diện đời sống con người và cộng đồng xã hội từ chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, tôn giáo. Đợt sóng văn minh công nghiệp này lan tràn nhanh chóng ra khắp Châu Âu, rồi tiến sang Bắc Mỹ và một số quốc gia Châu Á, Châu Úc trong ba thế kỷ vừa qua.

Thời đại công nghiệp là dùng máy móc thay thế sức lao động của thời đại nông nghiệp, sản xuất hàng loạt theo hệ thống giây chuyền, làm giảm nhân công và tăng lợi nhuận. Một quốc gia muốn công nghiệp hóa thì phải có cơ giới và thiết kế các hãng xưởng, mở mang kỹ nghệ, khai thác luyện kim, chế tạo động cơ… và từ đó mà xây dựng, phát triển đô thị công nghiệp cũng như xóa bỏ ranh giới nông thôn.

Nhờ kỹ thuật cao ruộng đất thị trấn được xây thành đô thị nhanh chóng, vận chuyển và cung cấp lương thực từ nông thôn cho dân chúng tỉnh thành tiêu thụ dễ dàng, phương tiện lưu thông thuận lợi, mở mang đường xá, xây dựng cầu cống, đào vét sông ngòi. Sản xuất công nghiệp càng ngày gia tăng, thì số lượng hàng hóa càng ra nhiều, càng giá rẻ, càng mới lạ.

Từ cuộc sống thịnh vượng có công ăn việc làm, sản phẩm mới xuất hiện liên tục, giá thành giảm hạ tạo ra cho tâm lý cho con người thích tiêu thụ, thích mua sắm, thích thời trang. Tiêu thụ giờ đây không còn là nhu cầu mà trở thành cái thú tiêu khiển hoặc bệnh ghiền mua sắm thời trang.

Sinh hoạt xã hội nông nghiệp cũng được công nghiệp hóa. Ví dụ công nghiệp văn hóa giáo dục, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp ấn loát, công nghiệp truyền thông báo chí… và ngay cả các cơ sở tôn giáo cũng biến thành công nghiệp. Biểu tượng thời đại công nghiệp là cột khói nhà máy để thay thế hình ảnh con trâu cái cày của thời đại nông nghiệp. Ông tổ là Newton thay cho Thần Nông. Nhu cầu kinh tế là công nhân và nhiên liệu, và nhu cầu chính trị là dân chủ chớ không còn quân chủ.

 

 

Tưởng Niệm Bát Phúc (The Beattudes) bên Biển Hồ Galilee, Do Thái

 

 

1. Kinh Tế Công Nghiệp

 

Kinh tế của thời đại công nghiệp là sản xuất các sản phẩm hàng loạt cho nên cần nhiều công nhân với mức lương giá rẻ, có tay nghề cao sau khi được thụ huấn qua những khóa đào tạo ngắn hạn. Thời kỳ tiền công nghiệp thì việc mở rộng thành thị cho các khu kỹ nghệ xí nghiệp là trọng điểm, bởi thế ruộng đất trong vùng ngoại ô được trưng dụng, giá thành nâng cao, xây dựng đô thị.

Người dân thì tập trung vào việc phát triển kinh tế quốc gia, trong khi quốc gia lại cần nguyên liệu sắt, thép, gỗ, hóa chất, xi măng, dầu khí… cho các nhà máy hoạt động. Sản phẩm làm ra lại cần thị trường tiêu thụ, cho nên chính quyền phải mở những xa cảng, hải cảng, phi cảng để vận chuyển và lưu thông hàng hóa đi khắp nơi.

Nhìn vào hệ thống công nghiệp, phải xét đến ngành hàng hải trước tiên, vì từ khi con người biết phát minh ra máy hơi nước thì tầu thủy cũng được trang bị và xuất hiện. Động cơ hơi nước cũng được dùng rộng rãi trong mọi hoạt động của hãng xưởng, công ty xí nghiệp, và trở thành động lực phát triển thời đại.

Trong giai đoạn tiền công nghiệp phát triển, quốc gia cần nhiên liệu cho việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, do đó nhiều nước công nghiệp trang bị lực lượng chiến binh hùng hậu để mang quân đi đánh chiếm những lãnh thổ của nước khác, làm thuộc địa, tìm thị trường và khai thác khoáng sản tài nguyên.

 

2. Chính Trị Công Nghiệp

 

Tới thời hậu công nghiệp người ta lại chứng kiến một nền “chính trị hậu quốc gia.” Thời đại này thì khác biệt với nhu cầu của nông nghiệp là cần lãnh thổ, hay tài nguyên là nhu cầu của thời tiền công nghiệp, việc đi xâm chiếm các quốc gia làm thuộc địa thì không còn cần thiết trong thời hậu công nghiệp vì khả năng hoạt động cơ giới đã phát triển vượt bậc và làm thay đổi tư tưởng con người theo bảng giá trị thời đại.

Sức mạnh bắp thịt con người và súc vật cũng giảm dần trong việc sản xuất, đang khi hỏa lực vũ khí vật dụng do máy móc làm ra lại càng tăng thêm. Công nhân làm việc bằng chân tay cũng giảm số lượng nhưng lại đạt tiêu chuẩn. Vì con người phát minh ra nhiều phương tiện di chuyển thông tin liên lạc nhanh chóng, sản phẩm dư thừa với giá cả rẻ hơn cho nên các quốc gia lại có những mối liên quan mới.

Tương quan thế giới tạo ra nền chính trị hậu quốc gia và quyền lực quốc tế.  Mỗi ngành nghề, mỗi lãnh vực, mỗi phương diện đời sống xã hội phát triển tạo nên những hệ thống quốc gia quốc tế và quyền lực riêng, khiến cho quốc gia khó hoặc không kiểm soát nổi. Bởi thế quyền lực quốc gia được phân quyền và tản quyền cho nhiều ban, nhiều ngành, nhiều cấp trách nhiệm.

Nhân viên làm việc công khai tiếp xúc trực diện với dân chúng khách hàng nhằm cải tiến sản phẩm, khuyếch trương hãng xưởng, cạnh tranh với các công ty xí nghiệp khác, trong khi có số nhân viên lại âm thầm làm việc cần nơi yên lặng kín đáo giúp đầu óc suy tư sáng tạo. Hai hình ảnh tương phản chìm – nổi đã phát sinh hình thức tổ chức và nguyên tắc thành lập ra đảng chính trị, gồm có đảng cầm quyền và đảng đối lập, lãnh đạo có chủ tịch nổi và lãnh tụ chìm trong hệ thống quyền lực quốc gia về mọi phương diện, kinh tế cũng như chính trị.

Dân chúng bình thường chỉ nhìn thấy quyền lực nổi, đang khi quyền lực chìm đã quyết định các vấn đề nội bộ sinh tồn của chế độ được ngụy trang dưới nhiều hình thức, hiện hình hay tàng hình. Tổ chức dù lớn hay nhỏ đều có những vấn đề quyết định, và những nhân vật điều hành ở cấp quốc gia phải lập ra Nhóm Quyết Định nhằm giải quyết cho cả một khối lượng quyết định. Xã hội càng rộng lớn, càng phức tạp thì quyết định lại càng nhiều và khó hơn, tạo ra khối phẩm và lượng quyết định.

Ở thời tiền công nghiệp phân chia lao động còn thô sơ, thay đổi chậm chạp, nên số lượng quyết định để điều hòa xã hội tương đối có ít. Vì có ít quyết định nên người khả năng trên trung bình, không đòi hỏi nhiều chuyên môn cũng có thể điều hành lãnh đạo và quyết định tất cả công việc của một công ty, một xí nghiệp, một quốc gia.

Nhưng khi công nghiệp bành trướng thành nhiều lãnh vực mang tầm vóc quốc gia quốc tế rộng lớn thì khối lượng quyết định tăng nhiều và đòi hỏi phân quyền, tản quyền xuống địa phương. Nhiều khi có những quyết định vượt ra ngoài khả năng của người cầm quyền, cho nên buộc chính quyền phải tuyển chọn nhân tài làm cố vấn giải quyết, từ đó lại phát sinh quyền lực chuyên viên. Và khi chính quyền đáp ứng quyền lực chuyên viên, thì dân chủ là vấn đề đương nhiên không phải do chọn lựa, mà là tiến hóa.

 

3. Xã Hội Công Nghiệp

 

Xã hội công nghiệp đã tạo hệ thống sản xuất giây chuyền, do đó hệ thống cơ giới xí nghiệp cũng là giây chuyền và liên thuộc công nghiệp. Con người vào thời này bị ràng buộc bởi các tổ chức chính trị, càng văn minh thì lại càng bị ràng buộc trong các hệ thống chính trị nhiều hơn.

Bị ràng buộc trong các hệ thống cho nên mới đòi hỏi người tổ chức, lãnh đạo, điều hành và quản trị phải có đức tính liên thuộc, từ tầm nhìn cho tới cách giải quyết vấn đề đều có ảnh hưởng giây chuyền với các bộ phận trong nhiều hệ thống tổ chức. Cách tìm công thức giải pháp và quyết định có ý thức trách nhiệm liên đới, được gọi là dân chủ.

Hệ thống toàn cầu đã được xây dựng bằng những đơn vị quốc gia quốc tế. Liên thuộc có nghĩa là quốc gia A hành động, thì sẽ ảnh hưởng tốt/ xấu cho quốc gia B, C, D. Một quyết định ở Nhật Bản cũng gây ảnh hưởng tới Hoa Kỳ và nhiều quốc gia Đông Nam Á.

Khi Hoa Kỳ xử dụng giây thủy tinh để dẫn điện thì gây ảnh hưởng cho Chile và Zambia là hai nước sản xuất đồng. Việc bảo vệ môi sinh ở Brazil gây ảnh hưởng ngay đến giá gỗ trên thế giới.

 

4. Ý Niệm Tự Do

 

Đa số dân Tây phương là nông nô của các lãnh chúa trong những lãnh địa vào thời thế kỷ 17. Người dân cho rằng họ không phải là cá nhân, mà là thành phần của cộng đồng lớn hoặc bé. Lãnh chúa và trưởng tộc là những người có quyền sai khiến, dạy sao làm vậy, toàn dân không có bất cứ quyền hạn nào.

Họ bị bắt buộc sinh sống trong lãnh địa, không được phép di chuyển, không được phép làm việc ngoài chỉ đạo, không được phép giữ tài sản tiền bạc hay vật dụng trao đổi, không được phép giáo huấn hay tư tưởng ngoài những lời truyền dạy của lãnh chúa trưởng tộc.

Nhưng khi công nghiệp phát triển có nhiều việc mới, ngành mới, nghề mới thì người dân không còn bị cột chặt vào ruộng đất để sinh sống như trước, không còn sự lãnh đạo của các chủ nhân ông, không còn cảnh tá điền bị đánh đập tra khảo vì thiếu nộp địa tô, và con người đã biết chọn lựa nghề nghiệp mưu kế sinh nhai.

Đó là tự do cá nhân đầu tiên của người nông nô và dẫn đến những tự do khác. Kết quả việc hành nghề thì có tiền, và nhờ tiền mọi người hưởng quyền tự do. Tự do hành nghề dẫn đến tự do kinh doanh, tự do chính trị.

Triết lý tự do chính trị và tự do kinh tế nhấn mạnh đến tự do cá nhân, bình đẳng, và cơ hội.

Trái lại, triết lý bảo thủ thì nhấn mạnh đến giai cấp, truyền thống, và quyền tư hữu.

Tự do chính trị đã làm thay đổi xã hội nhanh hơn bảo thủ. Ý nghĩa và trọng tâm của danh từ, hay chủ nghĩa tự do được thay đổi nhiều lần qua thời gian, nên khó mà có định nghĩa rõ ràng.

Tự do ở thuở ban đầu, được hiểu là quyền chống lại lãnh chúa, nhà cầm quyền, vì nhà cầm quyền hạn chế tự do cá nhân. Tự do cá nhân của chủ nghĩa tư bản là tự do lựa chọn tôn giáo, cách sống, người phối ngẫu, nghề nghiệp.

Người tự do chọn cách ít tốn kém về mọi vấn đề ảnh hưởng tới cuộc sống. Họ tiết kiệm tiền, sức lao động, trả giá dịch vụ, hàng hóa trên thị trường để được hưởng giá thị trường. Những việc trên tạo ra xã hội thị trường, kinh tế thị trường, và chính trị thị trường.

Những người tư bản đầu tiên đề cao tự do cá nhân, đề cao tự do kinh doanh và xã hội kinh doanh làm thay đổi bộ mặt xã hội. Xã hội lại cần có cấu trúc tổ chức chính trị điều hành quản trị. Từ đó mà có những cuộc cách mạng long trời lở đất ở Anh Quốc vào năm 1688, ở Hoa Kỳ vào năm 1775, ở Pháp Quốc vào năm 1789 đã dẫn đến những thể chế tự do, quốc gia tự do, thế giới tự do.

Người tự do đầu tiên tin tưởng rằng cai trị ít là cai trị tốt nhất, cá nhân sẽ được thuận lợi hơn nếu được chính quyền cho phép theo đuổi quyền lợi riêng tư. Họ cũng tin tưởng rằng nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh, tự vận hành, tự kiểm soát nếu được tự do điều động theo quy tắc kinh tế tự nhiên.

Bởi thế nền kinh tế tự do dẫn tới kết luận là chính quyền không cần thiết can thiệp hay chỉ đạo trong việc điều hành kinh tế quốc dân. Tư tưởng tự do được kinh tế gia Adam Smith (1723-1790), người Anh hệ thống hóa và trình bày trong tác phẩm The Wealth of Nations: Sự Thịnh Vượng của các Quốc Gia, xuất bản vào năm 1776. Hệ thống này được gọi là chủ nghĩa tư bản hay tư do kinh doanh.

Quan niệm ban đầu của chủ nghĩa tư bản là sự phối hợp liên kết tự do kinh tế với tự do chính trị trong một quốc gia. Khoảng giữa thế kỷ 20, nhiều người tự do nghĩ đến việc phải bớt tự do và hạn chế tự do về kinh tế.

Họ bị thuyết phục là hành động của chính quyền sẽ tạo điều kiện để cá nhân có thể phát triển tiềm năng và tôn trọng nhân quyền. Người dân bắt đầu ủng hộ những chương trình tạo an tòan kinh tế, an sinh xã hội, an dưỡng lao động, giảm bớt khổ đau cho mọi người như trợ cấp thất nghiệp, lương bổng tối thiểu, định tuổi hưu trí, bảo hiểm sức khỏe với nhiều biện pháp chống nghèo đói và bất công xã hội.

Người tự do cấp tiến vẫn giữ mối quan hệ với sự tự do kinh tế chính trị ban đầu, và cho rằng sự tự do cá nhân là quan trọng nhất và chính quyền phải hành động để tháo gỡ những chướng ngại giúp cho người dân được vui hưởng tự do đích thực. Về phương diện kinh tế và xã hội họ cũng thừa nhận tự do kinh doanh, nhưng kinh tế tư bản cần được cải tiến để trở thành kinh tế xã hội, chủ nghĩa xã hội.

Do đó chủ nghĩa xã hội của Âu Mỹ thì khác biệt với “xã hội chủ nghĩa” của khối quốc gia cộng sản mà chúng ta từng chứng kiến. Chính quyền “độc tài đảng trị” cộng sản là một thứ quyền lực chính trị tuyệt đối quản lý mọi thành quả của xã hội, và có thể vơ vét tài sản quốc gia làm của riêng cho giai cấp lãnh đạo.

Bởi thế họ tạo ra bất công tham nhũng thối nát và bần cùng hóa nhân dân, vì họ đã lấy bất công đi chống bất công và tạo thêm bất công chồng chất. Đây là nguyên nhân và là điều kiện tiên quyết để “chống bất công xã hội” mà chúng ta cần tránh mắc phạm sai lầm này.

 

5. Kinh Tế Tư Bản

 

Theo nền kinh tế tư bản thì thương gia tự do buôn bán, khách hàng tự do mua sắm, công nhân tự do chọn việc, chọn nghề, chọn chủ, và thị trường được tự do không có sự can thiệp của chính quyền. Nguyên tắc xây dựng thị trường tự do là để mặc tự nhiên – tự nhiên nảy sinh và tự nhiên phát triển.

Cho dù sản xuất có nhiều thay đổi, giá cả hàng hóa lên xuống bất thường, phẩm lượng làm ra tốt xấu, nhân công hãng xưởng nhiều ít, nhưng nền kinh tế tư bản sẽ tự chỉnh như theo quan niệm của Adam Smith khởi xướng, cũng như cuộc cách mạng kinh tế tư bản được diễn ra trong cuốn sách của ông.

Nền kinh tế tư bản đặt trên sự tự do cá nhân. Mỗi người được tự do chọn lựa phương cách thương mại, để thỏa mãn những nhu cầu hoặc ước vọng của riêng mình.

Cá nhân được tự do đem tham vọng vào thương trường, cạnh tranh với tham vọng của cá nhân khác bằng những hàng hóa tốt rẻ đẹp, đáp ứng đúng nhu cầu thị hiếu của khách hàng, của thị trường, của xã hội.

Theo Adam Smith, tự do cạnh tranh là “bàn tay vô hình,” cơ giới an toàn và tự động giúp cho nền kinh tế điều chỉnh. Ngoài sự cạnh tranh giữa các thương gia với nhau, còn có sự cạnh tranh của thương gia khách hàng, hoặc thương gia công nhân.

Một trong những sáng tạo kỹ thuật mang lại hiệu qủa cho nền kinh tế tư bản là hệ thống dây chuyền. Trong hệ thống dây chuyền thì sự phân chia công việc là yếu tố quan trọng.

Adam Smith quan sát và nhận định rằng, “Mười người với sự trợ giúp của dụng cụ và máy móc, có thể sản xuất được bốn mươi tám ngàn cây kim trong một ngày, nhưng nếu làm việc riêng rẽ thì chắc chắn mười người không thể làm xong hai mươi cây kim, và cũng không thể làm xong một cây trong một ngày.”

Về ảnh hưởng tâm lý thì hệ thống dây chuyền làm cho con người cảm thấy như mình không còn là con người trọn vẹn. Vì lúc trước thì người thợ giày làm từng đôi giày, bây giờ thì người ấy chỉ làm cái quai, hoặc cái đế mà lại thấy có nhiều giày.

Bởi thế người công nhân khó nhận định được giá trị của mình trong xã hội, và cảm thấy mình trở thành một mắt xích, hay một con ốc nhỏ trong một guồng máy khổng lồ. Hơn nữa, hệ thống dây chuyền thường là nơi người chủ có cơ hội bóc lột người làm công nhiều nhất.

Tốc độ của máy là then chốt của số lượng sản xuất, cho nên chủ nhân thường tăng tốc độ làm nhanh lên tới mức tối đa, trong khi tiền lương của thợ lại vẫn được trả theo từng giờ. Mồ hôi và sức sống của công nhân bị vắt ép cạn kiệt để thành lợi nhuận cho chủ nhân.

 

6. Kinh Tế Cộng Sản

 

Quyền tư hữu tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản sinh ra mâu thuẫn đối kháng, quái thai cộng sản ra đời. Theo Karl Heinrich Marx (1818-1843) thì nhà nước quản lý các hãng xưởng kỹ nghệ hay nông nghiệp, rồi sản xuất và phân phối hàng hóa xuống thẳng tới tay người tiêu thụ, thì xã hội mới có thể tránh bất công.

Nhưng Marx quên một điểm là quyền chính trị tuyệt đối của chủ nghĩa cộng sản sinh ra tham nhũng, dân hèn nước nhược và bần cùng hóa xã hội.

Marx cho rằng hệ thống thương mại tư bản, sản phẩm phải qua nhiều giai đoạn trung gian phi sản xuất, mỗi giai đoạn lại cộng thêm những phí tổn chuyên chở, kho chứa hàng, tiền nhân viên bảo quản hàng hóa, tiền lời rồi mới đến tay người tiêu thụ. Từ đó giá cã hàng hóa phải tăng cao và bất ổn, vì sản phẩm tập trung trong tay một số nhỏ tư nhân, gia đình, hay công ty độc quyền khai thác.

Mặt khác vì làm lời bằng công sức lao động, cho nên mâu thuẫn giữa chủ nhân và thợ thuyền, là nguồn gốc của trạng thái căng thẳng, dẫn đến hậu qủa cuối cùng là hệ thống tư bản xụp đổ. Kinh qua tư bản, nền kinh tế tự nó thiết lập những công xưởng với dụng cụ máy móc, đồng thời đào tạo lớp người chuyên viên cho một xã hội mới – chủ nghĩa xã hội phát sinh để thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa này bắt đầu bằng sự độc tài của giai cấp vô sản, là một nền kinh tế không giai cấp và không bóc lột. Sau cùng là chủ nghĩa cộng sản nguyên vẹn – một thiên đàng kinh tế và chính trị của loài người. Một chiếc bánh vẽ rất tài tình.

Nhưng lý thuyết Marx đã thất bại thảm hại. Vì rằng để giải quyết vấn đề bất quân bình đã chẳng phải là triệt tiêu các khâu trung gian, mà tạo thành mạng lưới thị trường giải quyết những vấn đề bất quân bình trong sản xuất và phân phối. Nhiều công ty tư bản trên thế giới đã thấy ưu điểm của hệ thống mạng và áp dụng mở rộng thị trường, họ cũng dự tính cho nhu cầu tương lai theo đà biến chuyển chính trị và thể chế dân chủ của thế giới.

Trong Tư Bản Luận, Marx tiên đoán về sự xụp đổ có thể xảy ra của nền kinh tế tư bản. Vì kinh tế tự do trở thành một phương tiện cho các công ty tư bản có thể thẳng tay sát phạt nhau. Hậu qủa của tự do cạnh tranh là mua đứt các công ty nhỏ, để trở thành công ty lớn độc quyền trong sản xuất và phân phối hàng hóa.

Một khi công ty lớn phá sản hoặc chuyển nhượng sự độc quyền thao túng, thì thị trường lên cơn sốt và làm cho giá cã sản phẩm tăng giảm tùy theo sự chạy đua lợi nhuận của giai cấp chủ nhân. Khách hàng là nhân dân tiêu thụ thì không còn được hưởng tự do chọn lựa. Bởi thế theo Marx, sự tự do cạnh tranh thị trường tạo ra công ty độc quyền, và độc quyền sẽ triệt tiêu quyền tự do lựa chọn của khách hàng, của công nhân.

Kỹ thuật sản xuất phát triển, số lượng công ty trong ngành công nghiệp chỉ còn lại có một mà thôi, thì nhu cầu nhân công trong công nghiệp đó cũng giảm theo, và công ty giảm năng xuất để tăng giá cã hầu có thêm lợi tức. Công ty độc quyền được tự do bóc lột sức lao động của người dân, vì dân cần có việc làm để sống.

Hơn nữa công nhân lại cũng chính là khách hàng. Số lượng sản xuất giảm dần trong khi dân số tăng thêm. Sự mua bán xuống dốc, và các công ty sẽ ngưng đầu tư. Cũng theo Marx, ngưng đầu tư thì việc làm càng thêm hiếm hoi, và cứ xảy ra tình trạng như vậy liên tục thì nền kinh tế tư bản mãi lún sâu, cho tới lúc xụp đổ.

Thật ra Marx cũng không phải vô lý. Vì sự xụp đổ vĩ đại của nền kinh tế tư bản đã xảy ra vào thập niên 1930 như một cơn sóng thần đổ ập trên đầu nhân dân Hoa Kỳ cùng với bao nỗi kinh hoàng.

Kinh tế Hoa Kỳ lúc đó một nửa giá trị tổng sản lượng đã biến mất. Một phần tư dân số bị thất nghiệp và mất việc làm. Hơn một triệu gia đình bị tịch thu tài sản nhà cửa vì nợ nần, bởi không thể trả tiền nhà, tiền nợ ngân hàng hàng tháng. Chín triệu trương mục tiết kiệm tiêu tan, và nhiều nhà băng đóng cửa, khai phá sản và xập tiệm.

Nếu như số lương bổng và lợi tức ước tính vào năm 1929 của Hoa Kỳ là 15 tỷ, thì đến năm 1932 chỉ còn 886 triệu. Người nghèo thì nghèo thêm. Người giàu với những ngân khoản kếch xù không biết đầu tư nơi đâu và tiêu gì cho hết… cứ thế, đến nỗi chính quyền Liên Bang phải dùng ngân sách quốc gia đầu tư vào hệ thống thị trường, nhằm tạo ra công ăn việc làm và thúc đẩy sức vận chuyển của nền kinh tế khôi phục.

Chính phủ Hoa Kỳ phải can thiệp vào nền kinh tế tự do vì sợ rằng dân chúng lúc đó bắt đầu nổi loạn. Không chính quyền nào có thể cai trị được một lũ ma đói.

Với Tư Bản Luận và chứng cớ khủng hoảng của nền kinh tế thời đại, thì ắt có người tin Marx vì họ không am tường về nền chính trị dân chủ và kinh tế tự do. Nhưng Marx sai lầm.

Nền kinh tế tư bản tuy có xụp đổ nhưng không dãy chết để dẫn đến chủ nghĩa cộng sản như ước mơ của Marx. Vì rằng xã hội Hoa Kỳ đã không có chế độ phong kiến nên không có giai cấp bóc lột, như Marx đã từng thấy ở truyền thống kinh tế Châu Âu.

Mặt khác, nền kinh tế Hoa Kỳ mạnh nhất thế giới là nhờ vào truyền thống chính trị dân chủ. Dân chủ có nghĩa là được tự do tư tưởng và tự do diễn đạt. Khi người dân được tự do liên lạc, và hệ thống truyền thông nâng cao khả năng hiểu biết của người dân, thì người ta sẽ tự suy xét và tự quyết định những vấn đề có ảnh hưởng hay liên hưởng trực tiếp đến họ.

Sự tự do tư tưởng và tự do diễn đạt đã tạo ra môi trường cho sức sống sáng tạo của toàn dân trên các bình diện văn hóa văn minh kỹ thuật. Sức mạnh của xã hội Hoa Kỳ về bất cứ phương diện nào cũng đều là sức mạnh của truyền thông.

Khi sự hiểu biết của tòan dân được nâng cao đến mức họ có ý thức được những điều mang lại lợi ích chung thì họ sẽ đồng thuận. Nguyên tắc đồng thuận chính là một phương thức vận động sức mạnh dân tộc tối đa của một quốc gia.

Nhất là trong thời đại văn minh khi con người đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, nhưng chính họ phải có tự do quyết định, không bị ràng buộc hoặc lèo lái bởi những nguồn tin giả (fake news). Mặc dù có khủng hoảng chính trị xảy ra chăng nữa, thì đó cũng chỉ là nguyên do thiếu nhân cách lãnh đạo của tổng tư lệnh có hạn kỳ mà thôi.

Đây là mấu chốt phát triển của nền kinh tế tư bản mà Marx phải thừa nhận rằng chính ông khó tin khó ngờ.

Marx chỉ nhìn kinh tế tư bản qua lăng kính của chế độ phong kiến Châu Âu. Chế độ kinh tế “võ trị” được thiết lập từ khi có sự chiến thắng của văn hóa du mục trên văn hóa nông nghiệp, họ vẫn duy trì kinh tế pháp lệnh và phát sinh giai cấp tư bản thống trị với đặc quyền đặc lợi, cũng theo giòng thời gian văn hóa chủ nô, người dân phải sống dưới quyền sinh sát của các lãnh chúa trong những lãnh địa trước khi đợt sóng công nghiệp tràn ngập bao phủ.

Cũng là lỗi tại Marx (mea culpa… mea maxima culpa) đã xem chủ nghĩa tư bản và văn hóa chủ nô Châu Âu là một, cho nên ông có sự sai lầm khi đưa ra nguyên lý mâu thuẫn nội tại và bởi thế các chế độ cộng sản được thành lập rập khuôn theo cấu trúc chủ – nô Tây phương. Văn hóa chủ nô theo biểu tượng cấu trúc tổ chức tam giác, pyramid (văn hóa ba góc) trên là chủ nhân dưới là nô lệ, trên là vua trị dưới là dân hầu, trên là chủ tịch dưới là trâu cày trong các chế độ cộng sản ngày nay.

 

7. Xã Hội Công Nghiệp

 

Vì nhu cầu phát triển kinh tế, cho nên đô thị thành lập nhiều hãng xưởng, công ty xí nghiệp tạo ra công ăn việc làm phù hợp cho mọi người, mọi giới, mọi giai tầng trong xã hội. Hơn nữa, nhờ cơ chế an toàn của nền kỹ nghệ, cho nên đời sống gia đình cũng bắt đầu thu hẹp, gồm có cha mẹ và con cái, là vệ tinh hóa, không còn mang hình ảnh đại gia đình ông bà cha mẹ con cháu, họ hàng thân bằng quyến thuộc rộng lớn như trong làng xã của thời đại nông nghiệp ngày trước.

Tiểu gia đình công nghiệp thay đổi toàn diện cuộc sống từ tư tưởng cá nhân, gia đình, xã hội, luân lý đạo đức vốn có của chế độ gia tộc. Nền giáo dục và truyền thông đại chúng phổ biến rộng lớn khi có máy in ra đời, sách vở báo chí xuất bản dễ dàng, thuận tiện cho độc giả theo dõi tin tức hàng ngày.

Cho nên tư tưởng con người cũng từ đó thay đổi, cuộc sống thay đổi, hành xử thay đổi, văn chương thay đổi… văn xuôi tiểu luận trở nên thích hợp cho người đọc hơn là văn vần thuộc thời nông nghiệp. Bởi thế thi phú đã chỉ phát triển trong thời đại nông nghiệp và tàn lụi hay phai lạt trong thời đại công nghiệp.

Từ khi phát minh ra máy in đã tạo thêm người in, nghề in, ngành in và phát hành sách báo, thông tin quảng bá. Cũng từ khi có máy in, nền giáo dục công nghiệp được đại chúng hóa dễ dàng và mau chóng.

Các hệ thống trong thời công nghiệp lại được phát triển nhanh chóng hơn thời phong kiến ngày trước, nhờ tư nhân được tự do hoạt động kinh tế, và nhờ nhân tài lãnh đạo điều hành xí nghiệp, công ty cho nên mọi phương diện đời sống con người đã thay đổi tòan diện.

Mỗi lãnh vực xã hội lại có triều chính riêng, vua riêng. Vua xe hơi, vua dầu hỏa, vua địa ốc… và tiểu thị tiểu bang đều có những tiểu vương có thực quyền, và ảnh hưởng tới đời sống xã hội…để phát sinh hệ thống chính trị xã hội hàng ngang, chớ không còn hệ thống độc quyền hàng dọc như của thời nông nghiệp, trên bảo dưới nghe.

Ngôn ngữ văn chương công nghiệp cũng đương nhiên thay đổi, và trở thành hệ thống hóa, hay công nghiệp hóa. Ví dụ: công nghệ giáo dục, công nghệ thông tin, công nghệ báo chí… Biên giới tiểu thị/ tiểu bang nằm trong hệ thống liên thị/ liên bang giờ đây lại khác biệt với thời nông nghiệp, vì không còn là biên giới của hai tiểu thị hay quốc gia như trước, tuy cũng còn cột mốc, còn lằn ranh địa lý của các tiểu thị/ tiểu bang, nhưng những lằn ranh khác của đời sống con người trên đó, ví dụ: an sinh xã hội, thuế vụ, tiền tệ, quốc phòng cũng xóa mờ hoặc mất hẳn.

So với công tác của triều đình ở thời nông nghiệp, thì chính phủ tiểu bang trong thời đại công nghiệp lại có sự cách biệt lớn lao trong các hệ thống quốc gia. Và tiểu thị/ tiểu bang có cơ cấu tổ chứ lãnh đạo và điều hành riêng, rồi từ đó đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các tiểu thị/ tiểu bang với nhau để hình thành những điều kiện phát triển năng khiếu cho con người, và phát triển chính trị xã hội.

Các tỉnh của Gia Nã Đại thì tổ chức gần giống như tiểu bang của liên bang Hoa Kỳ. Riêng Úc Đại Lợi, các tiểu bang cạnh tranh nhau bằng cách công khai trong công nghệ du lịch, quảng cáo, lập những cơ sở giải trí, thu hút du khách địa phương và quốc tế.

Mỗi tiểu bang lại có sắc thái, luật lệ riêng cho những vấn đề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh địa lý, công nghệ riêng. Điều này tạo nên sự cạnh tranh chính đáng và nhờ vậy xã hội phát triển. Cũng như ở Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại, các tiểu bang Úc Đại Lợi cũng ráo riết cạnh tranh trong công nghệ giáo dục, đầu tư vào các đại học để đào tạo chuyên viên trong nước cũng như ngoài nước, vì công nghệ giáo dục đã mang lại cho quốc gia Úc hơn một tỷ Úc Kim mỗi năm.

Tiếp đến là liên thị/ liên bang, đơn vị chính trị của thời đại công nghiệp, do sự kết hợp của các tiểu thi/ tiểu bang. Quyền hành quốc gia được “tản” đến mỗi tiểu bang, để địa phương xử dụng sao cho thích nghi với hoàn cành riêng, mà không đi ngược lại nguyên tắc căn bản của liên bang. Liên bang hay các quốc gia trong thời đại công nghiệp có nhiều hệ thống sản xuất ở cấp quốc gia. Mỗi hệ thống lại có những khách hàng là “công dân tiêu thụ.” Mỗi hệ thống cũng có “triều đình riêng” tạo ra quyền lực ở cấp quốc gia của một lãnh vực nào đó, mà không lãnh thổ.

Thời đại công nghiệp cũng chia những hoạt động ra thành ba cấp: công nghệ sơ cấp: gồm các lãnh vực sản xuất của thời nông nghiệp: nông, lâm, ngư được cơ giới hóa. Công nghệ thứ cấp là ngành kỹ nghệ nặng: luyện thép, đúc nhôm, chế tạo xi măng, khai thác hóa chất từ dầu hỏa, sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc gia dụng. Công nghệ đệ tam cấp: gồm các dịch vụ tài chánh, bảo hiểm, cung cấp nước, hơi đốt, điện, chuyên chở, hàng hải, hàng không, nguyên tử năng và không gian.

Cũng trong thời đại công nghiệp, những cuộc cải hóa tự do đưa đến việc thành lập chính quyền dựa trên quy luật khế ước và theo nguyên tắc đồng thuận giữa giới cai trị và người dân. Nhiều bản hiến pháp chi tiết hóa việc đồng thuận qua tuyên ngôn nhân quyền và đề cao các quyền cá nhân là tự do ngôn lua65n, báo chí, hội họp, và tín ngưỡng. Hiến pháp cũng đề cập việc bảo vệ các quyền trên, chống lại cơ quan cảnh sát và tòa án lạm dụng quyền hạn.

 

8. Hiến Pháp

 

Mục đích của hiến pháp là (1) bảo vệ đời sống tự do của mỗi cá nhân, (2) áp dụng nguyên tắc chia quyền, phân quyền, và tản quyền trong cộng đồng chính trị xã hội, (3) thiết lập một chính quyền hiến định.

Chính quyền hiến định là hạn chế quyền lực, ngăn ngừa thao túng của nhà cầm quyền mưu đồ tập trung quyền lực để trở thành độc tài tham nhũng, do đó mỗi chế độ chính trị cần có một khung tổ chức nhằm phân chia quyền hành, hệ thống định nghĩa, và một quy chế cộng đồng.

Những cuộc cải hóa Âu Mỹ đã đưa nhân loại tới thể chế chính trị dân chủ như ngày nay. Năm 1688 Vua James II của nước Anh bị đại chúng phản đối, đa số lãnh tụ Quốc Hội muốn mời William of Orange trở về điều hành đất nước. Sau khi William từ Netherlands về nước, Vua James II phải rời bỏ ngai vàng chạy trốn sang nước Pháp, và đó là cuộc thay đổi chính trị vẻ vang vì cải hóa diễn ra không đổ máu.

Vua William đăng quang và chấp nhận bản Tuyên Ngôn Dân Quyền vào năm 1689, một văn kiện chính trị đầu tiên công nhận quyền căn bản của người dân, những quyết định tăng thuế hay tăng quân đội của nhà vua phải có sự phê chuần và chấp thuận của quốc hội.

Hiến pháp của nước Pháp được công bố sau cuộc cải hóa phá ngục Bastille năm 1789, giải tán chế độ quân chủ để thực hiện châm ngôn “Tự Do, Bình Đẳng và Huynh Đệ.” Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền do Lafayette soạn thảo, quy định mọi người có quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền được an toàn về thân thể, quyền chống áp bức bất công là những quyền lợi tự nhiên của con người.

Công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do sáng tác và xuất bản, pháp luật là tiêu biểu cho nguyên vọng chung, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được dân chúng đồng ý yểm trợ. Nhưng những nhà lãnh đạo cải hóa thời đó thiếu sáng tạo để soạn thảo ra một chương trình hành động nhằm khởi xướng một tổ chức chính trị dân chủ, ngược lại họ tái lập chế độ cũ, theo phương thức tổ chức chính trị cũ, đường lối cũ của hệ thống vua quan.

Bản hiến pháp của nước Pháp tuy rằng trở thành khuôn mẫu, nhưng nhiều điều khoản đã phải thay đổi nhiều lần… chứng tỏ nhà lập hiến soạn thảo theo cảm tính, lý tưởng, ước mơ chớ chưa đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn dân và hoàn cảnh thực tại nước Pháp thời bấy giờ. Nhà soạn thảo cũng chưa đủ tầm nhìn thoát khỏi biên cương quốc gia mà đem “Tự Do, Bình Đẳng, và Huynh Đệ” lên tầm kích vũ trụ nhân loại như bản văn Hiến Pháp Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ am tường bài học cải hóa chính trị của hai nước Anh Pháp, cho nên tránh tái lập chế độ quân chủ, và sáng lập ra một thể chế chính trị dân chủ gọi là tổng thống chế, quân bình quyền lực giữa liên bang với các tiểu bang, khai sáng kỷ nguyên tam quyền phân lập, mở ra trang sử dân chủ pháp trị cho nhân loại trong thời đại công nghiệp vừa khai trương.

Hiến Pháp Hoa Kỳ đặt ra nguyên tắc Tản Quyền, áp dụng vào việc điều hành giữa trung ương và địa phương. Liên bang dành quyền tự chủ tự quyết cho các tiểu bang, và quyền tự do tự lập cho người dân.

Đã tản quyền, Hoa Kỳ lại còn có nguyên tắc Phân Quyền giữa chính phủ do tổng thống chịu trách nhiệm, Quốc Hội là cơ quan lập pháp và là đại diện cho toàn dân. Cơ quan này có nhiều quyền hạn hơn của bất cứ quốc hội nào khác. Đặc biệt tổng thống, là người do dân bầu và do cử tri đoàn chọn ra.

Nguyên tắc Kiểm Soát và Điều Hòa của Hiến Pháp Hoa Kỳ trở thành một nét đặc trưng trong lịch sử chính trị, vì rằng đã phối hợp thành công trong nhiều việc trọng đại của quốc gia, thay vì những cơ quan công quyền lấn áp, chèn ép, tranh chấp lẫn nhau, như chúng ta thấy ở nhiều quốc gia khác. Tóm lại Hiến Pháp Hoa Kỳ là luật của quốc gia hay còn gọi là bộ luật mẹ.

Hiến pháp ấn định thể thức tổ chức chính quyền, ấn định các quyền và mang lại sự tự do cho công dân. Hiến pháp cũng  nêu rõ các mục đích của chính quyền, các phương cách và đường lối thực hiện để đạt đến mục đích, do hiến pháp đề ra.

Hiến pháp được soạn thảo để thống nhất và thành lập một chính quyền quốc gia, từ thời chiến tranh vào năm 1775 đến 1783, Hoa Kỳ chiến đấu với Anh quốc và dành lại độc lập từ đế quốc Anh. Khởi đầu năm 1781 mười ba Tiểu Bang đề xướng chính quyền Liên Bang, dưới bộ luật gọi là Hiến Chương Liên Bang (The Articles of Confederation).

Hiến Chương kết hợp hành pháp, lập pháp, tư pháp thành một cơ quan gọi là Quốc Hội. Vị chủ tịch được chọn bởi ủy ban của các tiểu bang, và có quyền chủ tọa như tổng thống.

Thực tế Hiến Chương thiếu ngành hành pháp và hệ thống tòa án quốc gia, vì chỉ là đại diện 13 tiểu bang đầu tiên của Hoa Kỳ. Hiến chương cho phép chính quyền Liên Bang có quyền tuyên chiến và điều hành công việc ngoại giao, nhưng không cho phép Liên Bang thu thuế, quy định mậu dịch, thương mại trong nước và ngoài nước.

Nói khác đi Hiến Chương không cho phép Liên Bang điều khiển các sinh hoạt của cấp tiểu bang, cho nên Liên Bang không có phương tiện, không có tài chính, không có lực lượng để bảo vệ quốc gia. Hơn nữa số tiểu bang lại tự phát hành tiền tệ, tạo ra những thay đổi mệnh giá của đồng tiền, làm hỗn loạn kinh tế quốc gia.

Như vậy Hiến Chương không thích hợp trong việc điều hành đất nước mà Hoa Kỳ cần phải có Hiến Pháp.

Năm 1787 Hội Nghị Quốc Gia tổ chức tại Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania với mục đích xét duyệt Hiến Chương, nhưng kết quả lại là một chương trình tổ chức chính quyền quy mô do Hiến Pháp đề xướng. Hiến Pháp Hoa Kỳ được ký vào ngày 17 tháng 9 năm 1787, tác giả gồm nhiều nhân vật như George Washington, Thomas Jefferson, James Madison, Alexander Hamilton, và Benjamin Franklin… Trước khi Hiến Pháp trở thành luật thì cần sự phê chuẩn của 9 Tiểu Bang, nhưng chỉ vài tháng sau bản văn được ký kết và phê chuần đầy đủ.

Delaware là tiểu bang đầu tiên phê chuẩn vào ngày 7 tháng 12 năm 1787. Và New Hamshire là tiểu bang thứ chín, làm cho Hiến Pháp trở thành hiệu lực vào ngày 21 tháng 6 năm 1788.

Có nhiều sự chống đối Hiến Pháp vì người ta cho rằng văn kiện này không bảo đảm đủ quyền lợi cá nhân, không bảo vệ tự do cho mỗi người, không ngăn ngừa bất công do chính quyền có thể tạo ra… Bởi thế 10 Tu Chính Án Hiến Pháp hay còn gọi là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Bill of Right) được đệ trình.

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trở thành luật vào ngày 15 tháng 12 năm 1791, do các tu chính án Hiến Pháp bảo đảm tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và báo chí, tự do hội họp ôn hòa của công dân và quyền được xét xử bởi bồi thẩm đòan.

Hiến pháp quy định Tổng Thống đắc cử bởi “tuyển cử đòan,” một nhóm người được chọn bởi các tiểu bang. Toàn dân bầu thành phần Hạ Viện đầu tiên như đang thi hành bầu cử ngày nay. Nhưng các Nghị Sĩ được tuyển chọn bởi các nhà lập pháp tiểu bang, điều này tiếp diễn cho tới những năm 1900 thì tất cả lại do dân bầu.

Tối cao pháp viện có quyền sau cùng để giải thích hiến pháp. Tòa án có thể hủy bỏ bất cứ đạo luật nào của liên bang, tiểu bang hay địa phương nếu có tranh chấp liên quan đến Hiến Pháp.

Ba điều đầu tiên của hiến pháp chia quyền thành ba ngành với quy định phân biệt rõ ràng:

– Ngành Lập Pháp làm luật và đại diện bởi Quốc Hội

– Ngành Hành Pháp thi hành luật, đại diện bởi Tổng Thống

– Ngành Tư Pháp giải thích luật, đại diện bởi Tối Cao Pháp Viện

Sự phân chia này được hiểu là phân quyền, mục đích là ngăn ngừa bất cứ ngành nào của của chính quyền trở nên qúa mạnh, để có thể trở thành độc tôn độc tài. Hiến Pháp Hoa Kỳ ấn định nguyên tắc “kiểm soát và điều hòa” (check and balance) để bảo đảm không có ngành nào ưu thế hơn, và ngăn ngừa từng ngành vượt quyền hạn của mình mà quên đi quyền hạn của ngành khác.

Quốc Hội có quyền làm luật, nhưng Tổng Thống có quyền phủ quyết các dự luật đó. Đó là kiểm soát và điều hòa. Trong trường hợp “check on a check” quốc hội có thể vượt qua (override) để phủ quyết quyền tổng thống bằng cách đạt 2/3 số phiếu thuận trong Quốc Hội. Và Tối Cao Pháp Viện có thể kiểm (check) Quốc Hội bằng cách vô hiệu hóa luật của Quốc Hội vừa thông qua, nếu vi hiến.

Đối với nhân dân Hoa Kỳ, câu mở đầu hiến pháp gồm 4 điểm, thiết lập nền tảng cho truyền thống chính trị Hoa Kỳ.

– “Chúng tôi Nhân Dân Hiệp Chủng Quốc” (We the People of the United States). Điểm chính yếu là người Mỹ tự xưng mình với tư cách một quốc gia thống nhất, không còn liên bang gồm nhiều tiểu bang hội nhập, và nhấn mạnh việc cần thiết tạo dựng, thống nhất một dân tộc mới.

– “Với mục đích tạo sự liên kết toàn hảo” (In order to form a more perfect union). Theo cách nói này thì sự cố gắng đầu tiên của người Mỹ soạn thảo “Hiến Chương Liên Bang,” nhưng còn thiếu sót, không thích hợp và nói lên việc soạn thảo Hiến Pháp là  điều cần thiết.

– “Lập công lý, bảo đảm yên vui gia đình, dự phòng sự chiến đấu chung, khuyến khích an sinh và bảo đảm hoàn toàn tự do cho chúng ta và con cháu chúng ta” (established justice, insure domestic tranquility, provide for the common defense, promote the general welfare and secure the blessings of liberty to ourselves and our posterity). Đây là những mục tiêu chính của sự thành hình Hiến Pháp và Chính Quyền của một quốc gia. Đọan văn này còn nói lên sự cần thiết việc có chính quyền để mang lại trật tự và tự do cho quốc gia dân tộc.

– “Soạn thảo và lập bản hiến pháp này cho Hiệp Chủng Quốc Châu Mỹ” (do ordain and establish this contitution for the United States of America). Với các mục đích trên và phương thức làm việc, người Mỹ bắt đầu thành lập chính phủ.

Hiến Pháp Hoa Kỳ được chấp nhận vào năm 1787 chứa đựng số bảo đảm cá nhân, nhưng dù sao cũng đã có nhiều tiểu bang từ chối, và không thông qua bản văn kiện này vì không có một đạo luật đặc biệt về nhân quyền. Bởi thế Hiến Pháp Hoa Kỳ phải có mười tu chính án ra đời, được biết với tên là Đạo Luật Nhân Quyền.

Hiến Pháp khởi đầu chỉ gồm Lời Mở (Preamble) và 7 Điều (Articles).

Điều I: Ngành Lập Pháp (Legislative)

Đoạn 1: Quốc Hội (Congress)

Ngành lập pháp của Chính Quyền Liên Bang do Đoạn 1 của Hiến Pháp ấn định. Quốc Hội được chia thành Hạ Viện và Thượng Viện. Quốc Hội được chia theo hệ thống lưỡng đảng. Khi một đảng chính trị có đa số trong Hạ Viện, đảng này kiểm soát tất cả ủy ban Hạ Viện.

Phát Ngôn Viện/ Chủ Tịch (Speaker) Hạ Viện chủ tọa các phiên họp của Hạ Viện, và cũng là lãnh tụ đảng.

Đoạn 2: Hạ Viện – Viện dân biểu (House of Representatives). Hạ Viện của Quốc Hội gồm những đại biểu của quận (Districts), những Dân Biểu từ các quận bầu cử của 50 tiểu bang.

Hạ Viện đại diện cho dân trên căn bản dân số tùy thuộc vào địa phương. Nhưng tới năm 1929, Quốc Hội giới hạn tổng số đại biểu là 435 và không chú trọng tới tổng số dân nữa.

Hạ Viện có quyền đề nghị các dự luật, chỉ có Hạ Viện mới có quyền khởi tố các nhân vật cao cấp của chính quyền (impeachment). Thượng Viện xét xử những vụ khởi tố đó.

Đoạn 3: Thượng Viện – Viện Nghị Sĩ (Senate). Thượng Viện của Quốc Hội gồm có hai Nghị Sĩ cho mỗi tiểu bang (2 x 50 = 100) nhiệm kỳ là 6 năm. Các tiểu bang có đại diện tại thượng viện bằng nhau, không tính dân số.

Phó Tổng Thống Hoa Kỳ là chủ tịch Thượng Viện, nhưng không được bỏ phiếu, chỉ trong trường hợp biểu quyết mà Thượng Viện đồng phiếu thì lúc đó lá phiếu của chủ tịch Thượng Viện là phiếu quyết đinh.

Điều II: Ngành Hành Pháp (Executive). Hiến Pháp quy định thể thức bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, với những quyền hạn của hai chức vụ này. Tổng Thống Hoa Kỳ được bầu với nhiệm kỳ 4 năm bởi nhân dân của 50 tiểu bang qua Cử Tri Đoàn, giới hạn trong hai nhiệm kỳ, và là trưởng ngành Hành Pháp.

Thẩm quyền hiến định của Tổng Thống là:

– Tư lệnh quân đội

– Quyền bổ nhiệm

– Giảm án tử hình và ân xá

– Thi hành luật một cách trung thực

Tổng Thống được ủy quyền trong việc ký kết hiệp ước với sự chấp thuận của 2/3 nghị sĩ. Hiến Pháp coi chính sách ngoại giao của Tổng Thống là chính sách ngoại giao của quốc gia.

Điều III: Ngành Tư Pháp (Judical). Hiến Pháp Hoa Kỳ ấn định Tối Cao Pháp Viện lãnh đạo ngành Tư Pháp là tòa án tối cao của chính quyền, và quốc gia Hoa Kỳ. Ngành này đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị là giải thích hiến pháp.

Để làm trọn vai trò đó, nhiệm vụ của Tòa Án trong việc phát triển của Hoa Kỳ rất lớn, đôi khi vượt qua tổng thống hay quốc hội. Tối Cao Pháp Viện là cơ quan cuối cùng giải thích hiến pháp, có quyền vô hiệu hóa, hành động của tổng thống hoặc luật của quốc hội, nếu vi hiến.

Điều IV: Sự Quan Hệ Giữa Các Tiểu Bang

Điều V: Giải Thích và Phương Thức Tu Chính Hiến Pháp

Thông thường thì tiến trình sửa đổi các điều khoản của hiến pháp là phản ảnh sự thay đổi của xã hội, qua sự tu chính hay gỉai thích hiến pháp. Nhưng những nhà lập hiến Hoa Kỳ, ngay từ
khởi thủy đã nhận thấy sự cần thiết phải có một điều khoản dự phòng để bản hiến pháp được quyền tu chính, do đó ho đã đề ra:

Tu chính án hiến pháp Hoa Kỳ cần được sự chấp thuận của 2/3 Quốc Hội và 3/ 4  của các Tiểu Bang. Phương pháp tu chính án hiến pháp của Hoa Kỳ thì thường khó hơn là thông qua điều luật thông thường.

Đang khi quốc tế thì lại khác, ví dụ Điều 80 của Hiến Pháp nước Pháp ấn định tu chính hiến pháp chỉ do quốc hội biểu quyết. Năm 1962 Tổng Thống De Gaulle đã làm ngơ khoản luật tu chính này, mà ông tổ chức Trưng Cầu Dân Ý một tu chính án, ấn định cách bầu cử tổng thống bằng phổ thông đầu phiếu, thay vì bầu cử hạn chế như trước khiến cho dư luận chính giới xôn xao một thời.

Cũng như Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi đề xuất cách tu chính án hiến pháp là sau khi thông qua lưỡng viện quốc hội, tu chính án phải được trưng cầu dân ý, và phải được đa số trong 4 trên 6 tiểu bang nước Úc chấp thuận.

Điều VI: Chấp Nhận Các Khoản Nợ Và Hiệp Ước Đã Ký Trước Khi Có Hiến Pháp

Điều VII: Phê Chuẩn Hiến Pháp. Hiến Pháp cần sự phê chuẩn của 9 trên 13 tiểu bang để cho hiến pháp trở thành hiệu lực.

Tiếp đến là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Trong 10 tu chính án của Đạo Luật Nhân Quyền chỉ có 8 điều tu chính án đầu tiên bảo đảm quyền tự do cá nhân. Đạo luật này có hiệu lực vào ngày 15 tháng 12 năm 1791, là một ngày được lấy để mừng Ngày Nhân Quyền. Tám tu chính án trong Hiến Pháp Hoa Kỳ bao gồm những quyền căn bản và những quyền tự do cho mọi công dân.

1.             Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do cải chính (rectify).

2.             Quyền mang vũ khí.

3.             Cho quân nhân tạm trú (housing of soldiers). Điều này là để chống lại chính quyền Anh quốc vào những năm 1700, khi bắt buộc dân Hoa Kỳ cho quân nhân tạm trú trong nhà.

Trong thời bình, cần phải có sự đồng ý của chủ nhà, Đoạn 3 – 5, quy định vấn đề riêng tư cá nhân (personal privacy) của người dân.

4.             Cơ quan công quyền khám xét tư gia thì phải có trát tòa (search warrant).

5.             Quyền của người dân trong những vụ án hình sự (rights in criminal cases).

6.             Quyền được xét xử một cách hợp pháp, công bình, vô tư và không thiên vị (rights to a fair trial).

7.             Quyền của người dân trong những vụ án hộ sự (rights in civil lawsuits).

8.             Ấn định tiền thế chân (bail), tiền phạt, hình phạt tương xứng với tội trạng.

Điều 9 và 10 nhấn mạnh đến những quyền không ghi trong hiến pháp là quyền dành cho người dân, và tiểu bang. Những quyền không ghi trong hiến pháp có nghĩa là tâm luật, chớ không chỉ có văn luật, và không ghi không có nghĩa là không có.

Hiến Pháp của các Tiểu Bang cũng chứa đựng Đạo Luật hay Tuyên Ngôn Nhân Quyền được chi tiết hóa và rõ ràng hơn Hiến Pháp của Liên Bang. Hiến Pháp ngày nay được coi là bản hiến pháp mẫu, nhưng cũng ít những quốc gia trên thế giới biết mang đến các quyền công dân cho người dân sở tại, như những người Công Dân Hoa Kỳ đang được hưởng.

Hơn thế nữa, bản Hiến Pháp của Hoa Kỳ cho tới nay cũng được coi là khuôn mẫu của xã hội công nghiệp, và bắt đầu trở thành lỗi thời khi xã hội tiến sang thời đại mới, Thời Đại văn minh Tín Nghiệp (Information Age) từ khi Hoa Kỳ phát minh ra máy điện toán và liên thị tín liệu, cho nên Hiến Pháp cũng cần thay thế hay cải tiến. Vì bộ mặt thế giới cũng đang thay đổi theo sự phát triển của dân số, khoa học kỹ thuật mới và vận tốc thời đại mới. Phương tiện di chuyển phát triển cao tốc cũng đồng nghĩa với sự thu hẹp quả địa cầu về mọi phương diện tứ chính trị, quân sự, kinh tế và điều hành.

 

9. Cạnh Tranh Công Nghiệp

 

Thời đại ngày nay là giao thương, con người đã chuyển chiến tranh quân sự sang giai đoạn của cuộc sống mới, là cạnh tranh kinh tế. Sự cạnh tranh quốc gia là nước nào có sản phẩm tốt, nâng cao đời sống dân chúng, phát triển ngành giáo dục tốt, và đào tạo đội ngũ chuyên viên giỏi… nước nào chiến thắng kinh tế thì sẽ chiến thắng trong các đấu trường khác.

Chiều hướng suy tư của giới lãnh đạo quản trị là luôn luôn thay đổi tạo ra sản phẩm kỹ nghệ mới, tốt hơn và dẫn đưa tới thịnh vượng. Hàng tháng các công ty lớn đều phải thay đổi cách quảng cáo, quảng cáo sau là phải hay hơn, hấp dẫn hơn, có tính cách quốc tế, toàn cầu hơn.

Qua nhiều kết hợp hệ thống, thời đại kỹ nghệ tạo ra đa sản xuất, đa tiêu thụ, đa giáo dục, đa truyền thông… Những nối kết này lại tạo ra những cơ quan gọi là trường đại học, công ty, đảng chính trị… Những nước chưa từng có kinh nghiệm sống trong cơ chế tự do dân chủ thì cho rằng xã hội kỹ nghệ hỗn độn, mặc dù xã hội đó vẫn phát triển theo chiều hướng văn minh, bởi xã hội có nhiều hệ thống phức tạp của thời đại kỹ nghệ.

Người viết phải thành thực nhìn nhận rằng thời đại ngày nay đã quá muộn cho dân tộc Việt Nam bước vào bình minh kỹ nghệ, nhưng giới lãnh đạo cầm quyền lại cản trở sức vươn vai của cả một dân tộc vì tư lợi cá nhân đảng phái.

 

10. Đối Kháng Công Nghiệp Và Nông Nghiệp

 

Những thay đổi quan trọng trong xã hội đã xảy ra rất nhiều đụng độ giữa dân chúng công nghiệp và nông nghiệp. Các quốc gia công nghiệp hóa đã từng xót thương chứng kiến những va chạm đẫm máu giữa hai thành phần công kỹ nghệ thương mại với khối lãnh chúa chủ đất ở Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… Nhiều nông dân bị bắt đi làm công nhân phục vụ với đồng lương rẻ mạt trong xí nghiệp kỹ nghệ mà giới bảo thủ kết án là “cơ sở ma quỷ, devil base.” Đặc biệt đảng Cộng Sản cầm quyền và công nghiệp hóa đã sinh ra giai cấp mới là cò đất và dân oan.

Những chống đối của nông dân, đấu tranh biên giới, phong trào quốc gia… nổi lên giữa nông nghiệp và công nghiệp, tạo ra bế quan tỏa cảng của các nước nông nghiệp. Ví dụ Việt Nam đối đầu với các nước công nghiệp Phương Tây vào thế kỷ 18, và hiện tượng này vẫn còn lặp lại ở bất cứ quốc gia nào muốn có công kỹ nghệ hóa. Bởi vì công nghiệp tự làm mòn biên cương lãnh thổ của mình, xâm nhập lãnh thổ nước khác… với các cuộc xâm nhập từ khoa học kỹ thuật, văn hóa, tôn giáo, kinh tế để làm mờ hay xóa bỏ biên cương chính trị của nhiều quốc gia.

Công nghiệp bành trướng thị trường quốc gia, kéo theo chủ nghĩa quốc gia, và chiến tranh thống nhất quốc gia như đã từng xảy ra ở Đức, Ý và nhiều nơi khác trên thế giới. Sức mạnh kỹ nghệ của Châu Âu cần thị trường và nguyên liệu rẻ ở những nơi xa xôi, do đó sức mạnh công nghệ tạo ra chiến tranh và xâm chiếm các nước ở trong thời đại bộ lạc, hay làng nước nông nghiệp của châu Á, châu Phi. Những nhân tài của thời đại công nghiệp đã chiến thắng trong việc tranh đoạt quyền hành ở trong nước cũng như đã chiến thắng trong những cuộc tranh đấu ở các nơi khác trên thế giới.

Quốc gia công nghiệp có nền kinh tế và xã hội phức tạp hơn nên cần liên lạc với các nước bên ngoài nhiều hơn qua các hiệp ước quốc tế. Do đó khối lượng hiệp ước quốc tế gia tăng trong thời gian qua. Quốc gia công nghiệp tiến đến nền kỹ thuật cao là nhờ sự liên lạc tối tân. Một lần nữa, kỹ thuật cao làm mềm làm mỏng biên giới quốc gia. Trong nước phải chịu những cải cách kinh tế, bằng cách đập phá một số xí nghiệp cũ để tân tạo xã hội mới. Nhưng các cơ sở và máy móc cũ này lại trở thành “mới” với các nước chậm tiến.

 

11. Vận Tốc Thời Đại

 

 Vận tốc thời đại công nghiệp đã tăng nhiều lần từ khởi đầu tới cuối thời đại, từ vận tốc cỡi ngựa, thuyền buồm, đến xe lửa, tàu thủy, phản lực cơ với vận tốc cả ngàn cây số giờ. Vận tốc tiến của một dân tộc của thời đại sau sẽ nhanh hơn thời đại trước tùy theo các hệ thống thông tin liên lạc. Sự liên lạc càng nhanh thì giao thương quốc tế càng dễ dàng và đạt tầm vóc toàn cầu.

Từ khi chiếc xe ra đời đã làm đời đã làm thay đổi bộ mặt xã hội. Nhờ dụng cụ kim khí con người cắt thân cây thành vòng tròn, đẽo đục và tra trục vào giữa tâm vòng tròn hoặc nhiều vòng tròn quay trên một trục gỗ. Theo thời gian trục gỗ được bọc đồng, và chiếc xe do người hay vật kéo giúp cho con người phương tiện di chuyển, chuyên chở nhanh và làm tăng vận tốc thời đại.

Từ chiếc xe trâu xe bò của mấy ngàn năm trước sang xe lửa, xe vận tải, xe gia đình, xe đạp, xe đua, xe tăng, xe cày, xe biết bay… cũng như xuồng độc mộc đến xuồng biết bay trên biển.

Từ thế hệ xe đầu tiên của con người làm toàn bằng gỗ; thế hệ hai thì bánh xe bằng kim loại; thế hệ ba có gắn máy, tiêu thụ nhiên liệu, cần người lái trực tiếp; thế hệ tư thì hỗn hợp máy chạy nhiên liệu và năng lượng mặt trời; thế hệ năm lại không cần nhiên liệu, mà chạy bằng năng lượng mặt trời và không cần người lái vì được hướng dẫn bằng điện tử…

Mỗi thời đại có con đường riêng. Thời săn hái con đường chỉ là những vết mòn do con người hay thú vật tạo thành. Đến khi có xe do súc vật kéo thì đường được mở rộng thêm cho xe di chuyển.

Tiếp đến là đường lót gạch, trải sỏi đá, rồi đường tráng nhựa, xi măng cốt sắt, đường sắt, đường thủy, đường bay, đường đạn… và các đô thị kỹ thuật cao có đường xe tự động, không cần người lái, và hành khách có thể ra lệnh bằng máy cho xe chở tới nhà của nơi chỉ định.

Thế hệ đường đầu tiên là đường mòn nối liền giữa các nhà để hình thành thôn xóm, đợt đường thứ hai là nối liền làng xã thành con đường cái quan. Tiếp đến thế hệ đường nhựa, đường xi măng cốt sắt, và tới giai đoạn kỹ nghệ đã phát sinh đường dịch vụ, đường gia cư, đường thành phố, đường tự do, đường vòng đai, đường một chiều, hai chiều…

Từ con đường đất xuyên qua lũy tre làng kết duyên trai gái tới con đường tình ái chuyên chở những bức thư tình… thì nay trở thành hệ thống đường mạng lưới điện tóan.

Con đường truyền tin Marathon dài 40 cây số do chiến binh liên lạc chạy về bộ chỉ huy báo tin mừng, sau tiếng “chiến thắng” và bị chết vì kiệt sức, nếu so sánh việc loan tin trên hệ thống truyền thanh truyền hình xung quanh thế giới ngày nay thì nó là một cải tiến vĩ đại không ngừng.

Con đường cứu nước Trưng Nữ Vương đánh đuổi quân xâm lăng Mã Viện, hay con đường thỉnh kinh Tam Tạng, hoặc con đường bách đạo/ truyền đạo của thánh Paul, so với những đường điện tử, đường ánh sáng, đường vô hình chuyển quân, chuyển kinh thư hay khối lượng tiền tệ khổng lồ là một bước tiến vượt mức tưởng tưởng của nhiều người.

Con đường cản binh Truông Nhà Hồ, chận đường tiến quân đối phương của Hồ Qúy Ly, so với đường bay vệ tinh quân sự kiểm sóat ngày đêm bay quanh trái đất là một sự thay đổi bất ngờ và khủng khiếp của thời đại.

Người ta có thể theo dõi trên hệ thống truyền thanh truyền hình để biết tin tức chiến tranh, tuy không được đầy đủ vì có những nơi mà thông tín viên không được vào, nhưng người ta cũng biết nhanh chóng hơn là tin tức của nhà cầm quyền nơi ấy đưa ra.

Vận tốc của thời đại càng nhanh bao nhiêu, thì nguy cơ chiến tranh bùng nổ và sự tàn phá của chiến trận trong thời đại sau bộc phát nhanh theo vận tốc cực kỳ nguy hiểm hơn với thời đại trước, và có thể ảnh hưởng giây chuyền toàn thể thế giới, nếu phe tuyên chiến hay lâm chiến có những đồng minh ủng hộ khắp thế giới.

 

12. Kết Luận

 

Trong lúc đợt sóng thứ hai vẫn còn đang tiếp diễn trên các quốc gia chậm tiến, thì đợt sóng khác quan trọng hơn lại đã bắt đầu. Đợt sóng mới khởi nguồn từ đầu thập niên sau Thế Chiến II, và là Đợt Sóng Thứ Ba (The Third Wave) đang lan tràn trên địa cầu, làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người.

Nếu như đợt sóng thứ hai bắt đầu tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1650, thì đợt sóng thứ ba đã chuyển đổi thời đại cũng tại Hoa Kỳ vào năm 1953. Ở thập niên này, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: giới công nhân dịch vụ văn phòng có nhiều hơn công nhân lao động chân tay.

Chúng ta thấy xuất hiện máy điện toán, máy bay phản lực thương mại, thuốc kiểm soát sinh sản, và những phát minh kỹ thuật khác. Ngày nay tại những quốc gia kỹ thuật cao, thì sự va chạm giữa hai đợt sóng nói trên đã làm cho nền kinh tế của đợt sóng thứ hai đông đặc và tàn lụi dần.

 

 

 

Đại Tá Không Quân Tiến Sĩ Don Michael Braford Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Seattle và Trung Úy Phạm Văn Bản Boeing's Keynote Speaker

 

 

 

 

Xin mời đọc tiếp

 

 

1. Không Tạc Lộc Ninh                     2. Đức Tính Lãnh Đao

 

3. Truyền Thuyết Nền Tảng               4. Truyền Thuyết Sống Thực

 

5. Truyền Thuyết Phục Hưng              6. Nguồn Gốc Con Người

 

7. Thời Đại Con Người                        8. Thời Đại Săn Hái

 

9. Thời Đại Nông Nghiệp                    10. Thời Đại Công Nghiệp

 

11. Thời Đại Tín Nghiệp                     12. Thời Đại Việt Nam

 

 

Những tài liệu khác xin mời vào đọc trong tiết mục: Tác Phẩm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

| Trang Chính  |  Tiểu Sử |   | Tác Phẩm |   | Hình Ảnh |   | Thân Hữu |

© 2000 Vietnamese Liberal And Democratic Organization (VLDO). All Rights Reserved

© Educational Research: Competencies for Analysis and Application