Xin kính mời bạn đọc CON NGƯỜI THỜI ĐẠI
do Con Cháu Tiên Rồng
xuất bản năm 2022
&
KINH xuất bản năm 2023
Thời Đại Con Người
Tiến trình văn minh nhân loại
được khởi sự từ thời đại săn hái qua các chế độ chính trị bộ lạc,
gọi là thời tiền sử (prehistory) tiến hóa hàng chục triệu năm,
để tiến hành tới thời đại nông nghiệp (agricultural age). Thời
đại nông nghiệp có nhu cầu kinh tế là đất nước và hạt giống, nhu
cầu chính trị của thời đại là quân chủ, và nhu cầu xã hội được
định đoạt trên bảng giá trị thời đại.
Thời đại nông nghiệp là một đợt
sóng đầu tiên làm thay đổi con người và đời sống xã hội. Nó đã
phải trải qua ba thời kỳ tiền nông nghiệp, nông nghiệp, hậu nông
nghiệp và kéo dài hàng chục ngàn năm. Biểu tượng của thời đại
nông nghiệp là cái cày, ông tổ là Thần Nông, và chế độ chính trị
là quân chủ.
Tiếp đến, đợt sóng thứ hai đã làm
biến đổi toàn bộ đời sống con người và xã hội. Kể từ khi phát
minh ra máy hơi nước, và áp dụng máy này vào kinh tế sản xuất
thì thời đại kỹ nghệ (industrial age) ra đời. Thời đại này cũng
trải qua các thời từ tiền kỹ nghệ, kỹ nghệ, và hậu kỹ nghệ tới
ngày nay là hơn ba trăm năm. Nhu cầu kinh tế của thời đại là nhiên
liệu và công nhân. Biểu tượng cùa thời đại là nhà máy cột khói,
ông tổ là Newton, và chế độ chính trị là dân chủ.
Đợt sóng thứ ba trên tiến trình
văn minh nhân loại đã khởi sự từ năm 1953, từ khi Hoa Kỳ phát
minh ra máy điện toán (computer), tức là thời đại tín liệu
(information age) ra đời để khai tử các thời đại ngày trước. Nhu
cầu kinh tế của thời đại mới này là kiến thức và dữ kiện. Biểu
tượng là máy điện toán, chế độ chính trị là tân dân chủ và đang
xuất hiện với nhiều hình thức cai trị mới đáp ứng nhu cầu chính
trị của thời đại mới này.
I.
Thời Đại
Săn
Hái
Trong thời kỳ này, các bộ lạc
được chia ra hai loại: du mục và nông nghiệp. Từ khuynh hướng
này con người phát minh ra hai cách cai trị: chế độ mẫu hệ, và
chế độ phụ hệ.
1.
Chế Độ Mẫu Hệ
Các bộ lạc chủ yếu về nông nghiệp
thì tổ chức công việc cai trị theo chế độ mẫu hệ. Người đứng đầu
bộ lạc, trưởng tộc/ hay trưởng bộ lạc là nữ giới. Người phụ nữ
đã giữ vai trò lãnh đạo chính trị đang khi nam giới chỉ phụ
thuộc. Theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ đứng đầu bộ tộc, từ gia
đình ra ngoài xã hội, như Trưng Vương, Triệu Vương
và các nữ tướng, nữ binh.
2.
Chế Độ Phụ Hệ
Các bộ lạc du mục thì nay đây mai
đó, không có chỗ ở nhất định và họ tìm đến vùng sữa mật để sinh
sống. Khi vùng đất ấy trở nên khô cằn thì họ lại đi tìm vùng màu
mỡ khác. Vì đời sống du mục thường gặp nhiều chướng ngại trên
đường di chuyển như thú dữ, bộ lạc hiếu chiến khác… nên nhu cầu
lãnh đạo phải là người có đủ sức mạnh đối phó, và nam giới được
chọn làm trưởng tộc/ trưởng bộ lạc, từ đó chế độ phụ hệ ra đời.
Ví dụ: Thành Cát Tư Hãn, Tổ Phụ Abraham…
Với hai chế độ mẫu hệ và phụ hệ,
thì chế độ phụ hệ có phần trổi vượt hơn, lấn lướt hơn, vì quen
sống chiến đấu để tranh giành, xâm chiếm đất đai. Khi các bộ lạc
du mục đến tranh đoạt, dân theo mẫu hệ thường yếu thế hơn, vì
không quen chiến tranh, không thích cảnh chém giết nên họ phải
bỏ vùng định cư mà di tản đi nơi khác. Nhưng rồi đất đai cũng có
giới hạn mà lòng người thì tham vô đáy, vì thế có nhiều bộ lạc
bị diệt vong hoặc đồng hóa. Thiểu số bộ lạc sống sót, vì nhu cầu
sinh tồn nên họ phải liên kết lại mà thành lập ra quốc gia.
Những bộ lạc du mục cũng thế, vì
nhu cầu sát nhập của các bộ lạc để đấu tranh với những bộ lạc
hùng mạnh khác, cộng thêm tình trạng dân số gia tăng, đất đai có
chủ và cần tổ chức xã hội qui mô để bảo vệ, để canh phòng cương
vực sở hữu. Hình thức tổ chức nhiều sắc dân trên vùng lãnh thổ
rộng lớn.
Quyền hành nằm trong tay một
người với một số thuộc hạ, hoặc họ hàng thân thích để hướng dẫn
đời sống dân trong lãnh thổ nhằm phát triển trong trật tự và
điều hòa. Lối cai trị với vùng lãnh thổ lớn đó gọi là quốc gia,
người lãnh đạo chính trị của quốc gia gọi là vua.
Thể chế quân chủ ra đời, tức Đợt
Sóng Nông Nghiệp/ Đợt Sóng Thay Đổi đầu tiên.
II. Thời
Đại Nông Nghiệp
Cách nay cả chục ngàn năm, Đợt
Sóng Thay Đổi đầu tiên xuất hiện khi con người biết trồng trọt,
chăn nuôi, dựng làng và đó là Thời Đại Nông Nghiệp ra đời.
Biểu tượng thời đại nông nghiệp
là cái cày. Từ lưỡi cày gỗ mà tiến đến lưỡi cày đồng, cày sắt do
trâu bò kéo, nó đã phải trải qua cả một tiến trình với thời gian
dài bao nghìn năm lịch sử (ít nhất là 8000 năm như minh họa).
Trong thời gian này con người đã có thể tự cuốc xới trồng trọt,
chăn nuôi gia súc, làm ăn sinh sống và thành công nhờ sức mạnh
bắp thịt, gọi là Thời Đại Cơ Năng.
Con người trong thời đại nông
nghiệp, vì cuộc sống phù hợp với thiên nhiên và phát triển tuần
tự theo sự xoay vần của vũ trụ, của trái đất xoay quanh mặt trời…
cho nên những tư tưởng, luật lệ, luân lý, đạo đức, tôn giáo… đã
trở thành khuôn vàng thước ngọc, bất biến, tín điều… và nhiều
điều dù không phải là chân lý, nhưng cũng được xem là chân lý.
Bởi thế các tôn giáo đã phát sinh từ thời đại nông nghiệp.
1.
Thể Chế Quân Chủ
Từ khi thành lập quốc gia, vua và
bày tôi tổ chức ra chính quyền để cai trị dân, gọi là triều
đình. Những nước có nguồn gốc du mục (phụ hệ) thường chú trọng
tới sức mạnh quân sự, các mặt liên quan đời sống dân sự chỉ là
phụ thuộc. Họ tổ chức binh lực để dập tắt các cuộc nổi loạn/ hay
muốn thay đổi chính quyền, đề phòng ngoại xâm, mở chiến tranh
xâm lấn các nước lân bang, tiêu diệt hay cưỡng chiếm các bộ lạc
chậm tiến/ chưa kịp theo đà biến đổi, cải tiến chính trị quân
chủ. Trong nước thì họ dùng võ lực để trị dân, áp dụng hình pháp
nghiêm nhặt triệt để gọi là Võ Trị.
Những nước có nguồn gốc nông
nghiệp (mẫu hệ) thì chú trọng tới việc giáo hóa, hướng dẫn chăm
lo đời sống ấm no hạnh phúc của dân, võ lực không phải là điều
chính yếu trong việc tổ chức cai trị dân. Hình thức cai trị này
là Văn Trị.
Tóm lại, vào thời tiền quân chủ
thì các nước có nguồn gốc du mục áp dụng Võ Trị, nặng hình pháp
trừng phạt mà hình luật thì lại vô tình. Đang khi các nước có
nguồn gốc nông nghiệp dùng Văn Trị, chú trọng giáo hóa, sửa đổi
con người, nặng tình hơn lý.
2.
Quân Chủ Phong Kiến
Vua tặng thưởng cho những người
có công, gồm tiền của, tặng phẩm hay chức vụ làm động lực thúc
đẩy lòng hăng say, nhiệt tình của những ai phục vụ cho chế độ,
cho nhân quần xã hội. Tổ chức chính quyền triều đình gồm có vua
quan và các phẩm trật chức tước, tước văn tước võ để tưởng
thưởng cho các công thần.
Đối với các chức quan nhỏ, dù văn
hay võ, khi có công thì được thăng lên chức tương xứng. Nhưng
tướng lãnh, hay quan nhất phẩm triều đình, hoàng tộc… thì tiền
của hay chức tước lại trở thành thứ yếu. Do đó vua cắt đất tặng
cho công thần và họ có toàn quyền xử dụng đất đai, lối tưởng
thưởng này gọi là phong kiến (phong hầu kiến địa).
Nhờ lối tổ chức cai trị theo hình
thức phong kiến đã giúp cho xã hội phát triển ổn định và điều
hòa trong nhiều ngàn năm. Nhưng sau, vì có nhiều lãnh chúa hay
tiểu quốc vương trên các lãnh địa gây hấn, xâm lấn, tiêu diệt
lẫn nhau trong thời gian dài mấy trăm năm, họ đưa xã hội vào
vòng hỗn loạn bế tắc. Bởi đó mà hình thức cai trị mới ra đời từ
Âu sang Á… đặc biệt là Trung Quốc vào năm 221 trước Tây lịch,
Tần Thủy Hoàng thành công trong chính sách “Diệt lục quốc thống
nhất thiên hạ” đổi thể chế phong kiến ra Quân Chủ Chuyên Chế.
3.
Quân Chủ Chuyên Chế
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, sau bao trăm năm chiến tranh giữa các tiểu vương quốc, Tần
Thủy Hoàng đã dùng bạo lực cưỡng chiếm các lân quốc. Ông đặt
quyền thống trị lên các lãnh thổ chiếm được, đoạt quyền bính của
các vua, đổi chế độ phong kiến ra chế độ quân chủ chuyên chế.
Đồng thời ông tập trung tất cả các quyền hành, thống nhất chữ
viết, tiền tệ, dụng cụ đo lường, luật pháp và sách vở. Quyền lực
được tập trung vào một tay của ông gọi là Hoàng Đế. Những phần
lãnh thổ chiếm được, ông chia làm quận huyện và bổ các quan chức
triều đình đến cai trị, và trực thuộc bộ máy cai trị độc nhất
của nước.
Song song với chế độ quân chủ
phong kiến phương Bắc do các sắc dân có nguồn gốc du mục dùng Võ
lực lãnh đạo chính trị, thì ở phương Nam chế độ quân chủ phong
kiến dùng Văn Trị. Đặc biệt do Việt tộc lãnh đạo và được hưởng
thái bình an lạc hơn 2500 năm từ khi Tần Thủy Hoàng thiết lập
thể chế quân chủ chuyên chế. Trong suốt 2500 năm lịch sử của
Việt tộc chỉ có 3 lần xảy ra chiến tranh qui mô cấp quốc gia.
Lần thứ nhất Ân Cao Tôn xua quân xâm lấn nước ta, và bị toàn dân
đánh đuổi khỏi bờ cõi. Lần thứ hai Việt Vương Câu Tiễn đánh bại
Ngô Vương Phù Sai để trả hận bị vây hãm ở núi Cối Kê. Lần thứ ba
giữa hai sắc tộc Bách Việt: Việt Vương Triệu Đà xâm chiếm đất An
Dương Vương Thục Phán ở thành Cổ Loa. Đang khi cùng khoảng thời
gian này thì ở phương Bắc châu Á, Trung Đông, và châu Âu đã xảy
ra hàng vạn cuộc chiến tranh kinh hoàng với sức tàn phá tàn
khốc.
Đang khi châu Á đã thay đổi thể
chế chính trị, từ quân chủ phong kiến sang quân chủ chuyên chế,
thì chính trị của châu Âu vẫn còn dậm chân tại chỗ. Các vua, các
lãnh chúa châu Âu lại dùng thần quyền, dùng tôn giáo để làm hậu
thuẫn chính trị, hay làm dù che khiên chống cho bộ máy cai trị
của họ. Mãi tới khi phát minh khoa học ra đời và làm thay đổi
các hệ thống gía trị cổ học, rồi nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ
tòan bộ hệ thống cai trị của đế quốc La Mã, thì khi đó mầm mống
chống đối, phản kháng trong lòng người dân bị trị mới bắt đầu
trổ hoa kết trái.
Rồi cũng trong thời gian này đã
xuất hiện những đội thương thuyền nối liền các lục địa, với
những thương gia giầu có. Giới thương gia càng ngày càng có
nhiều thế lực góp phần làm thay đổi bộ mặt xã hội, đồng thời, họ
ép buộc vua nhượng bộ và cải tiến hình thức cai trị: Quân Chủ
Lập Hiến ra đời.
Vì chính quyền quân chủ phong
kiến Châu Âu không còn đủ sức để tiêu diệt, không còn nhà tù để
giam giữ… thì lúc đó những nhà thám hiểm, trong đó Christopher
Colombus chỉ huy, tìm thấy các đảo nhỏ gần lục địa Châu Mỹ vào
năm 1492. Ít năm sau, người khác mới chính thức tìm ra lục địa
Châu Mỹ này, ông có tên là Amerigo nên người ta đặt tên cho lục
địa là America. Chính sự kiện thám hiểm này đã giúp cho chính
quyền Châu Âu giải quyết được những ứ đọng, qúa tải của nhà tù
bằng cách đưa chính trị phạm và tội nhân đi đày ở Châu Mỹ. Tiếp
đến, những dân ngang bướng sống trên lãnh địa châu Âu, cũng được
di cư lập nghiệp trên vùng thế giới mới (New World), nhằm làm
giảm cường độ chống đối guồng máy cai trị của các vua quan trong
chế độ quân chủ phong kiến châu Âu.
Cách giải quyết nói trên, cũng
không làm thỏa mãn nguyện vọng người dân bị trị, bởi dân thời đó
đã văn minh tiến bộ mà giai cấp cầm quyền vẫn không thay đổi lề
lối cai trị cũ. Rồi từ đó, trên vùng đất Châu Mỹ, các thế hệ
tiếp nối của lớp người di dân lưu đày, họ đã tổ chức vũ trang
chống lại nhà cầm quyền của đế quốc quân chủ Anh. Cuộc chiến
khởi sự từ năm 1775 và kết thúc vào năm 1783, sau khi giành độc
lập mười ba thuộc địa của Anh họp lại thành quốc gia Hoa Kỳ. Các
đại diện đã cùng nhau thảo luận và soạn thành văn kiện chính
thức, trong đó có một số luật lệ và bản qui định quyền hạn của
người cầm quyền và người dân bị trị, sự thỏa thuận giữa người
thi hành cai trị và người chấp hành luật lệ cai trị gọi là Hiến
Pháp Hoa Kỳ, công bố ngày 21 tháng 6 năm 1788. Ngày đó cũng là
ngày Thể Chế Dân Chủ ra đời, của một hình thức cai trị mới mà
người tham gia chính trị, cai trị do dân bầu ra gọi là Tổng
Thống.
III. Thời
Đại Công Nghiệp
Khi đợt sóng nông nghiệp bắt đầu
chìm xuống vào cuối thế kỷ 17 tại châu Âu (năm 1750) và cuộc cải
hóa
công nghiệp bắt đầu ở Anh
Quốc,
tạo thành đợt sóng vĩ đại thứ hai lan tràn ra cả nước, cả lục
địa
và
cả thế
giới
toàn cầu với nhiều tốc độ
khác nhau.
Đợt sóng thứ hai đã làm thay
đổi toàn bộ
đời sống người dân châu Âu, Bắc Mỹ và những nơi khác trên địa
cầu với một thời gian ngắn, vài trăm năm so với thời gian bao
nghìn năm của thời đại nông nghiệp,
hay bao triệu năm của thời đại săn hái.
Đợt sóng thứ hai vẫn còn tiếp tục lan rộng ra trên các quốc gia
nông nghiệp gọi là những nước chậm tiến, như trường hợp Việt
Nam. Nước này hiện nay đang hì hục và cố gắng xây dựng những lò
luyện thép, hãng chế tạo xe hơi, xưởng dệt, đường sắt, hệ thống
xa lộ, xưởng biến chế thực phẩm… do những công ty nước ngoài vào
đầu tư.
Biểu tượng của thời đại kỹ nghệ
là cột khói nhà máy. Các đô thị lớn xuất hiện, biên giới làng
được tháo gỡ, nếu còn thì chỉ còn trong tâm tưởng, trong tiềm
thức mà thôi… Nhờ sự an tòan của xã hội kỹ nghệ, nên gia đình
cũng được thu hẹp lại, gồm cha mẹ và con cái, gọi là “vệ tinh
hóa,” tiểu gia đình của một đại gia đình trong làng/ thời đại
nông nghiệp.
Vào thế kỷ 19, nhiều học giả đã
tiên đoán nền kỹ nghệ sẽ chiến thắng vẻ vang nền nông nghiệp
chân tay. Sức mạnh kỹ nghệ của Đợt Sóng Thứ Hai dựng nên những
đô thị lớn, sản xuất phương tiện di chuyển nhanh, và giáo dục
đại chúng.
Tư tưởng của con người trong thời
đại kỹ nghệ đã phát triển thành nhiều lãnh vực, làm thay đổi mọi
mặt từ đời sống cá nhân, gia đình tới những cơ cấu tổ chức đoàn
thể đảng phái, hay công ty xí nghiệp cấp quốc gia và guồng máy
cai trị.
1.
Quân Chủ Lập Hiến
Trước Đợt Sóng Dân Chủ Hoa Kỳ
tràn qua các nước quân chủ châu Âu, châu Á… đã làm cho vua chúa
của các chế độ phong kiến không thể khinh thường, nên họ phải
nhường lại cho dân một số quyền tự do, quy định rõ ràng trên văn
kiện gọi là quân chủ lập hiến.
Thật ra ý niệm về hiến pháp đã
được triết gia Hy Lạp Aristotle bàn tới từ hơn 300 năm trước Tây
lịch, khi ông đặt vấn đề về tổ chức cai trị. Nhưng các vua chúa
thời đó tới nay trải qua 2000 năm vẫn không muốn thi hành. Nếu
lập ra luật pháp, công bố văn kiện hiến pháp thì vua chúa phải
chia quyền với dân, và vua chúa sẽ bị giới hạn quyền hành bởi
luật pháp chi phối, cũng là điều mà những người cai trị không
bao giờ muốn. Nhưng vì không muốn vương quyền của họ sụp đổ nên
họ phải thay đổi hình thức cai trị, biến quân chủ phong kiến/
quân chủ chuyên chế thành ra quân chủ lập hiến.
Tiếp đến cuộc cách mạng kỹ nghệ
đã sản sinh ra một số đại tư bản, tư bản, và người dân nghĩ rằng
thể chế quân chủ đã là mầm mống của bóc lột bất công, cần lật đổ
để tranh lấy quyền cai trị. Một lần nữa, các vua chúa của chính
thể quân chủ lại cho người dân thêm tự do và quyền hành để bảo
đảm sự an toàn cho hoàng tộc. Hình thức cai trị này gọi là Quân
Chủ Đại Nghị.
2.
Quân Chủ Đại Nghị
Quân chủ đại nghị là hình thức
cai trị của quân chủ lập hiến, nhưng quyền cai trị phần lớn nằm
trong tay người dân. Các đại diện dân (dân cử) được giữ, được
ứng cử vào các chức vụ trong guồng máy công quyền, trừ chức vua.
Trong thể chế đại nghị, vua chỉ
có trên hình thức trị vì, đang khi quyền cai trị, quyền quyết
định lại thuộc về các đại diện của dân. Có thể nói, chính thể
quân chủ đại nghị là một hình thức chuyển giao quyền cai trị từ
vua sang dân, từ quân chủ sang dân chủ. Một cuộc cách mạng, một
cuộc biến đổi thể chế chính trị trong vòng trật tự, ổn định và
điều hòa.
3.
Thể Chế Dân Chủ
Sự kiện tuyên bố bản Hiến Pháp
Hoa Kỳ mở đầu một hình thức cai trị mới, mọi thành phần xã hội,
không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, phái tính, tín ngưỡng… đều
được quyền tham dự vào mọi sinh hoạt của quốc gia, và bình đẳng
trước pháp luật. Hình thức chính trị này gọi là thể chế chính
trị dân chủ.
Mặc dù hình thức mới này được
sinh sản và thực thi ở châu Mỹ, nhưng phải thừa nhận rằng nó đã
được thai nghén từ những cá nhân ưu tú, yêu chuộng tự do và công
bằng với lòng nhiệt thành, hăng say nung đúc tư tưởng dân chủ từ
môi trường mang thân phận nông nô, tội đày của các lãnh chúa và
giai cấp qúy tộc thống trị châu Âu.
Và mặc dù châu Âu có thực thi thể
chế chính trị dân chủ, nhưng tinh thần độc tài của các lãnh chúa
vẫn còn tồn tại… cho nên nó đã sản sinh ra các lãnh chúa trong
ngành kỹ nghệ, gọi là tư bản. Sự chênh lệch của hai giai cấp
giàu – nghèo trong xã hội tạo ra bất công và làm tiền đề cho chủ
thuyết cộng sản phát sinh, và thể chế dân chủ đã bị diễn giải và
thi hành bởi những tham vọng cá nhân có đầu óc bệnh hoạn để trở
thành chế độ dân chủ tập trung, dân chủ trá hình, hay phi dân
chủ.
IV. Thời
Đại Tín Nghiệp
Trong lúc đợt sóng thứ hai vẫn
còn đang tiếp diễn trên các quốc gia chậm tiến, thì đợt sóng
khác quan trọng hơn lại đã bắt đầu. Đợt sóng mới khởi nguồn từ
đầu thập niên sau Thế Chiến II, và là Đợt Sóng Thứ Ba đang lan
tràn trên địa cầu, làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người.
Nếu như đợt sóng thứ hai bắt đầu
tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1650, thì đợt sóng thứ ba cũng
đã chuyển đổi thời đại tại Hoa Kỳ vào năm 1955. Ở thập niên này,
lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: giới công nhân dịch vụ văn
phòng có nhiều hơn công nhân lao động chân tay. Chúng ta thấy
xuất hiện máy điện toán, máy bay phản lực thương mại, thuốc kiểm
soát sinh sản, và những phát minh kỹ thuật khác.
Ngày nay tại những quốc gia kỹ
thuật cao, thì sự va chạm giữa hai đợt sóng nói trên đã làm cho
nền kinh tế của đợt sóng thứ hai đông đặc và tàn lụi dần.
Biểu tượng của thời đại tín
nghiệp là máy điện toán. Máy này đã làm cho tiền tệ di chuyển
với vận tốc ánh sáng, là điều mà những nhà kinh tế học của thời
đại trước khó tiên đoán được. Tiếp đến các cơ quan xã hội có
chiều hướng lưỡng hệ/ đa hệ, tức nam nữ bình quyền và không mang
huyết thống hay liên hệ họ hàng… vì nhân tài là đặc tính của
thời đại chớ không độc quyền của một dòng tộc hay sắc tộc.
1.
Kinh Tế Tín Liệu
Trong lúc đất đai, công nhân,
nguyên liệu, vốn liếng là những yếu tố sản xuất của thời đại kỹ
nghệ, thì kiến thức (knowledge) lại được xem là dữ kiện, tin
tức, hình ảnh, biểu tượng, văn hóa, lý thuyết… là yếu tố sản
xuất của thời đại tín liệu. Kinh tế tín liệu đặt nền tảng ở các
thị xã kỹ thuật cao (hitech city).
Kỹ thuật của thời đại mới làm hạ
giá thành của các sản phẩm. Các sản phẩm và dịch vụ lại càng
ngày càng rẻ tiền, tiện lợi, nhanh chóng nhờ có kỹ thuật cao. Ví
dụ điển hình là trong thập niên trước, giá thành của một chiếc
máy in lasser bán ra thị trường với số tiền rất cao, đã mắc gấp
ba lần giá thành hiện nay, và cũng nhờ kỹ thuật tân kỳ đã làm
cho máy in chạy ra nhanh gấp nhiều lần so với máy thời trước.
Vì kỹ thuật càng ngày càng được
tinh vi, nhỏ gọn, rẻ tiền nên nó được phổ biến nhanh chóng và
địa phương hóa nền kinh tế khắp nơi. Chính điều này đã tác dụng
và làm thay đổi cán cân thăng bằng của các nền kinh tế quốc gia
và các khối chính trị.
Kiến thức là điều cần thiết cho
việc sản xuất và tạo ra thịnh vượng. Nó làm giảm sức lao động,
bớt đi máy móc, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, thời giờ,
tiền bạc… và không cần kho chứa hàng hóa. Ví dụ, máy tiện được
điện toán hóa nên có độ chính xác rất cao, rất nhanh, bớt hao
hụt nhôm, thép và còn giảm giờ làm việc của công nhân. Và nhờ kỹ
thuật thông minh kiểm soát nhiệt độ nên máy móc này đã gỉam
điện, giảm khí, giảm nước… hoặc xe hơi cũng giảm nhiều nhiên
liệu tiêu dùng. Năng lượng mặt trời và sức gió cũng sẽ trở nên
đóng góp quan trọng trong kỹ nghệ cũng như tư gia vào một ngày
gần đây.
Với mức độ sản xuất trong thời
đại tín liệu sẽ nhanh, nhiều, đẹp, nhiều kiểu… và được thay đổi
luôn nhờ vào máy điện toán cho phép, một nhà máy chế tạo xe hơi
có thể sản xuất ra rất nhiều kiểu xe mới lạ, mà tốn phí trong
việc đúc khuôn lại còn rẻ hơn ở thời đại kỹ nghệ.
Thời đại tín liệu là thời mua bán
tin tức, sáng kiến, quản trị, văn hóa, kỹ thuật tân tiến, nhu
liệu điện toán, giáo dục, huấn luyện, y khoa, tài chánh và các
dịch vụ của thế giới. Bởi thế những công nhân trí óc hay lao
động chân tay, muốn có việc làm trong thời đại mới này họ đòi
hỏi phải có Kiến Thức, nhưng cũng nhờ kỹ thuật tân tiến sẽ giúp
cho việc gíao dục mở rộng để có thể đào tạo ra hàng tỷ chuyên
viên.
Giá trị của các hãng điện tử,
điện ảnh, máy móc gia dụng, xe hơi… ắt lệ thuộc vào sáng kiến,
kiến thức cao, sự hiểu biết trong đầu của nhân viên, các dữ kiện
của ngân hàng, bằng sáng chế mà các công ty có thể kiểm soát
được, chớ không chỉ lệ thuộc vào xe vận tải, hệ thống giây
chuyền với những tài sản vật chất khác như thời đại kỹ nghệ. Số
vốn kiến thức sẽ tăng trưởng dần, nhưng khó mấy ai nhìn thấy.
Tóm lại, các khám phá về khoa học,
kỹ thuật của thời gian trước ắt trở thành lỗi thời. Hệ thống
gíao dục cũng phải đặt lại vấn đề. Các cơ cấu tổ chức kinh doanh,
xã hội, chính trị… cũng được nghiên cứu để canh tân cải tiến sao
cho phù hợp và theo kịp thời đại văn minh tín liệu này.
2. Nhu Cầu
Kiến Thức
Phạm
Văn Bản là chuyên viên Boeing
Kiến thức là sự hiểu biết thấu
đáo một hay nhiều vấn đề. Từ công ty cho tới cường quốc đều thu
thập kiến thức trong mọi lãnh vực: truyền thông, văn hóa, nghiên
cứu và phát triển bằng nhiều nguồn tài nguyên rộng lớn với những
phương tiện tối tân. Phương cách để thu thập tin tức có gía trị
là qua hệ thống tình báo, điệp viên.
Chiến Lược Kiến Thức của quá khứ,
hiện tại, và tương lai là tìm cách chuyển các nhân tài/ thiên
tài của nước người thành ra của nước mình. Vì nhân tài/ thiên
tài là người thông minh, là kho tàng kiến thức, do đó các sinh
viên/ học sinh ưu tú đều được cấp học bổng.
Ngay tự ngàn xưa, vấn đề nhân tài
và mỹ nữ đã trở thành mối quan tâm đối với triều đình đế quốc,
và trong nhiều giai thoại, nhân tài hay mỹ nữ đã làm thay đổi
cuộc diện chính trường của một quốc gia. Và để thâu nạp và chiếm
hữu nhân tài của các nước chư hầu, thì đế quốc thời đại nông
nghiệp cũng đã “chiêu hiền đãi sĩ,” hoặc tìm bắt nhân tài qua
hình thức Triều Cống.
Triều cống là dâng nạp phẩm vật
hoặc người tài cho nước thống trị. Thời gian bị đô hộ thì Việt
Nam phải triều cống Trung Quốc theo thứ tự ưu tiên: thứ nhất
nhân tài, thứ nhì mỹ nữ, thứ ba tiền vàng… Và thời nay, chính
sách thâu nạp nhân tài phục vụ cho “thiên triều” vẫn còn áp dụng
qua những chương trình “săn người”: viện trợ, học bổng, di dân,
tuyển mộ chuyên viên nghiên cứu.
Tiếp đến, quân sự hay dân sự,
cũng đều xử dụng chiến thuật “tát cạn thông minh,” bằng cách,
một là hủy diệt nhà thông thái của đối phương hay hai là thâu
nạp các nhà bác học. Và một trong những bí quyết của siêu cường
ngày nay, là “ăn trộm thông minh” của các nước chậm tiến.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến khi quân
đồng minh chiếm Berlin, các nước đua nhau tìm bắt các nhà thông
thái của Đức nhằm ngăn ngừa Đức Quốc Xã sáng chế những vũ khí
tối tân, bom nguyên tử… và Hoa Kỳ thành công hơn đồng minh trong
công tác này để mang số nhà bác học về nước. Chiến lược “tát
nước bắt cá,” các nhà thông thái trong Đệ Nhị Thế Chiến cũng xảy
ra nhiều chuyện rùng rợn. Đức Quốc Xã đã giết nhiều nhà khoa học
Châu Âu vì không đồng ý mà phục vụ cho tham vọng chiến tranh của
quốc trưởng Adolf Hitler.
Ngày nay, chiến lược kiến thức
vẫn không tận cùng. Lưỡi kiếm chiến lược kiến thức được mài sắc
bén hai bên, một bên thì dùng chém đứt sức tấn công của quân
địch, và bên kia lại chặt đứt những cánh tay nuôi dưỡng nó. Hoa
Kỳ là một nơi tốt nhất và nuôi dưỡng nhân tài/ thiên tài.
Các nhân tài/ thiên tài của các
ngành, các lãnh vực ở khắp nơi trên thế giới đổ xô về Hoa Kỳ để
học hỏi, nghiên cứu, tiến thân vì rằng quốc gia của họ không đủ
phương tiện cung ứng trong việc nghiên cứu, và giúp họ phát
triển tài năng. Ngoài ra, mức lương bổng và nếp sống cao đã thu
hút rất nhiều nhà thông thái của thế giới vào Hoa Kỳ để làm việc
cho siêu cường nguyên tử.
Cũng trong Đệ Nhị Thế Chiến, kỹ
thuật quân sự ở Hoa Kỳ đã tiến bằng vận tốc ánh sáng qua cuộc
nghiên cứu và thí nghiệm nguyên tử thành công. Hai quả bom
nguyên tử thả xuống Nhật Bản trước đây, nó chỉ là mặt trái của
một vấn đề, đang khi việc xử dụng nguyên tử vào kỹ thuật hòa
bình, nó đã thúc đẩy nền kinh tế vượt tiến quá nhanh. Từ đó mà
ngành tín liệu phát triển và ảnh hưởng ngược lại lãnh vực quân
sự.
Như chúng ta biết nhà bác học Von
Braun, người phát minh hỏa tiễn V1, V2 của Đức. Hỏa tiễn thì đã
có tự ngàn xưa dưới dạng pháo thăng thiên của Trung Hoa. Khi
những chiến lược gia Đức Quốc Xã cần vũ khí mới để thống trị thế
giới, Von Braun được bổ nhiệm giám đốc trung tâm sản xuất hỏa
tiễn. Hỏa tiễn V1 ra đời bằng nhiên liệu đặc biệt và đạt vận tốc
600 cây số/ giờ. Nạn nhân đã từng kinh hoàng với tiếng rú tử
thần gầm thét xé tan bầu trời u ám của hỏa tiễn V1, trước khi
chạm mục tiêu và tàn phá muôn loài. Chiếc V1 chỉ là bước đầu của
Von Braun, đã không phải là mục đích nhắm tới, như lời ông nói
trong một buổi thuyết trình về hỏa tiễn. Ông cho biết, hỏa tiễn
sẽ mở cửa cho Con Người bước vào không gian vô tận, và từ đó Con
Người sẽ cảm nhận sự u tối của chính mình đối với không gian.
Hỏa tiễn V2 ra đời và đốt bằng
nhiên liệu lỏng, có vận tốc nhanh hơn vận tốc âm thanh, nên khi
hỏa tiễn mang bom nổ tan tành thì lúc đó nạn nhân mới biết mình
chết, và đã gây ra kinh hoàng cho thế giới. Những nhà chiến lược
Đức Quốc Xã cũng tiếc rằng đã chế V2 hơi trễ, và nếu chế được
bom nguyên tử thì quốc trưởng Adolf Hitler không ngần ngại gì mà
không cho gắn bom nguyên tử vào hỏa tiễn V2 để tàn sát các quốc
gia láng giềng.
Sau này Von Braun cũng làm giám
đốc trung tâm hỏa tiễn Hoa Kỳ, và các khoa gia tuyên dương ông
làm người mở đầu kỷ nguyên thám hiểm không gian. Và là một giám
đốc, ông đã thành công trong nhiệm là được sự hợp tác tích cực
của mọi nhân viên. Dù là một nhà bác học, nhưng ông ngay thẳng
liêm chính, công bằng, không lạm dụng quyền hạn chèn ép nhân
viên dưới quyền, và biết áp dụng quyền lợi như lên chức, lên
lương, tặng thưởng để khuyến khích, thúc đẩy nhân viên tích cực
hợp tác. Von Braun đã thành công trong vai trò lãnh đạo của mình.
3.
Nghiên Cứu Phát Triển
Các nước văn minh chi tiêu một
ngân khoản khổng lồ trong việc “Nghiên Cứu và Phát Triển. Công
việc nghiên cứu (Research) của các công ty, hay của quốc gia
được nâng lên ưu tiên hàng đầu vì có nghiên cứu tìm tòi học hỏi
thì mới khám phá, mới phát minh để phát triển nền kinh tế quốc
gia.
Hoa Kỳ chi tiêu những ngân khoản
lớn cho việc nghiên cứu. Những trung tâm nghiên cứu này lại được
trang bị những máy móc, dụng cụ tối tân bậc nhất thế giới. Chính
đặc điểm này đã thu hút nhân tài trên thế giới, vì rằng các nơi
khác không đủ phương tiện để nghiên cứu giúp cho người tài thi
thố tài năng.
Ngoài ra, chương trình “săn đầu
người,” Hoa Kỳ trợ cấp học bổng cho những sinh viên/ học sinh ưu
tú đại học/ trung học, và những ai tỏ lộ khả năng xuất chúng ở
bất cứ lãnh vực nào trong xã hội, họ cũng đều được đi du học/ tu
nghiệp ở Hoa Kỳ, và tạo cho nước này thành nơi qui tụ nhân tài/
thiên tài của cả một thế giới.
Phạm Văn Bản tại Sheppard
Air Force Base, Texas năm 1972
Xin mời đọc tiếp
1.
Không Tạc Lộc Ninh
2. Đức
Tính Lãnh Đao
3.
Truyền Thuyết Nền Tảng
4.
Truyền Thuyết Sống Thực
5.
Truyền Thuyết Phục Hưng
6.
Nguồn Gốc Con Người
7.
Thời Đại Con Người
8. Thời
Đại Săn Hái
9.
Thời Đại Nông Nghiệp
10.
Thời Đại Công Nghiệp
11.
Thời Đại Tín Nghiệp
12.
Thời Đại Việt Nam
Những tài liệu khác xin mời vào đọc trong
tiết mục:
Tác Phẩm
|