Tác giả viếng thăm Cố Đô Huế
trong dịp Xuân Canh Dần và
viết bài nhận định về Vương Triều Nhà Nguyễn
cùng những hậu quả của giáo dục học đường tại Việt Nam
Lấy ngày nghỉ của hãng sản xuất
phi cơ thương mại Boeing Everett, Tiểu Bang Washington người
viết về thăm Cố Đô Huế, nơi vua quan Triều Nguyễn trị nước trong
143 năm, để kính cẩn dâng nén hương cầu cho nước thịnh dân an,
cùng thành tâm tạ tội với các bậc Khai Quốc Công Thần đang hiện
diện trong Thế Tổ Miếu.
Trước Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế
cùng hai vị Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Thuận Thiên Cao Hoàng
Hậu đại diện nhà Nguyễn, tôi xin thú tội vì đã đọc những sử liệu
thiếu quang minh chính đại của học đường Việt Nam trong thời đại
Cộng Sản, nên toàn dân đã có nhận thức sai lầm về vua quan Nhà
Nguyễn và đắc tội với Các Ngài.
Nhân ngày thăm viếng quê hương
hôm nay, nguyện xin Các Ngài rộng lòng tha thứ, gia ân phù giúp
cho toàn thể Con Cháu dân Việt, sớm thực tâm nối bước Tổ Tiên,
đem chính sử kết liên Toàn Dân Toàn Diện, tạo sức hùng hưng phục
Quê Hương, quyết loan truyền tuyệt tác Học Thuyết Tiên Rồng
thành cơ chế cứu nguy Nhân Loại. Đúng ơn Trời muốn, Hiển Tổ rạng
danh, lòng thành kính dâng, cúi xin hưởng nhận.
Mặt khác, tôi cũng xin cám ơn Cụ
ẩn danh ở Ngự Bình, Ngài có duyên may được gặp gỡ, tiếp xúc, và
tâm tình với tôi tại Bến Vân Lâu trên giòng Sông Hương, và trao
cho tôi vài cuốn sử liệu mà Cụ mang theo trên người, để giúp tôi
có tài liệu mà viết ra đề tài này. Xin tạ ơn và kính chúc Cụ
luôn an khang, mạnh khỏe, và trường thọ.
I. Nhận Diện Thời Cuộc
Năm 1953 Hồ Chí Minh phát động
một lúc hai phong trào là cải tạo nông nghiệp và cải tạo văn hóa.
Phong trào cải tạo nông nghiệp thì ông Hồ giao cho Trường Chinh,
tổng bí thư đảng Lao Động -- tiền thân Đảng Cộng Sản Việt Nam
lập ủy ban cải cách ruộng đất rồi trao phó cho hai ủy viên bộ
chính trị là Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương điều hành, đồng
thời Trường Chinh còn gởi thêm một ủy viên trung ương đảng là Hồ
Viết Thắng làm phụ tá.
Mục đích của phong trào này là
xóa bỏ Định Chế Làng Nước – là cơ cấu tổ chức và là một tuyệt
tác chính trị vốn có ngàn đời của Tổ Tiên Việt. Cộng đảng đã
truất phế quyền tư hữu đất đai của nông dân, tập trung toàn bộ
năng lực cho Hồ Chí Minh và đồng bọn xây dựng chế độ chuyên
chính vô sản, nhằm khởi sự cho cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt
Nam.
Cũng trong thời gian ấy, phong
trào thứ hai là cải tạo văn hóa, tức là cải tạo tư tưởng được
ông Hồ ủy nhiệm cho Phạm Văn Đồng, thủ tướng nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, lập ra một ban nghiên cứu Lịch Sử, Địa Lý và Văn
Học do Trần Huy Liệu làm trưởng ban, đặt quyền trực thuộc trung
ương đảng, sau này đã đổi tên là Ủy Ban Khoa Học Xã Hội.
Mục đích là đảng tìm cách tuyên
truyền xuyên tạc, đầu độc tẩy não những nhận thức về Văn – Sử –
Địa của toàn dân, để từ đó mọi sự suy nghĩ, ý kiến, tư tưởng tâm
lý của người dân thuận theo khuynh hướng độc tài toàn trị của
đảng. Bởi thế đảng Cộng Sản đã phủ nhận tất cả mọi thành quả xây
dựng đất nước, mở mang bờ cõi hay phát triển đời sống xã hội
Việt Nam của vua quan xưa nay, điển hình Nhà Nguyễn thời cận đại
mà Cộng đảng dễ dàng phán xét đánh phá.
Phong trào cải tạo tư tưởng do "bác
đảng" chủ trương, không chỉ dừng lại ở sự thay đổi tư duy hoặc
thái độ từng người, mà còn kích động mọi người biến thành lực
lượng chiến đấu, bảo vệ Chủ Thuyết Mác Lê. Việc làm của ban cải
tạo không chỉ lôi kéo học sinh/ sinh viên ra khỏi sự nhận thức
chính đáng của sử liệu Việt học, mà Cộng đảng còn đầu độc các
lớp người trẻ tin tưởng mù quáng vào ý tưởng mới/ ý thức hệ cộng
sản ghi trong các sử sách do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội soạn thảo
ra.
Do đó mỗi khi nghe nhắc tới công
lao hay sự nghiệp dựng nước giữ nước của Tổ Tiên tiền nhân, thì
các lớp thanh thiếu niên đều mất khả năng suy xét để trả lời, mà
họ chỉ còn có phản xạ tự nhiên và thốt ra lời báng bổ Tổ Tiên
như: “Chế độ phong kiến,” “quân chủ chuyên chế...” “vua quan
bán nước…” Họ phủ nhận lịch sử, cắt đứt truyền thống chính
trị ngàn đời của dân tộc và giống nòi. Đây là điểm nguy hiểm
trong công cuộc kiến thiết quốc gia.
Những thế hệ học sinh/ sinh viên
tiêm nhiễm sách sử do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam tuyên
truyền và đấu tố, họ luôn tỏ lòng vô ơn cũng như lộ chí căm thù
vua chúa nhà Nguyễn, bằng những kết án đã ghi trong sách giáo
khoa: “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động – Nhà
Nguyễn tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát
– Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà – Tự Đức bán rẻ đất nước cho
thực dân Pháp…” Tóm lại, cả nước đều phát biểu rập khuôn
theo một lập luận đấu tố, và đắc tội với Tổ Tiên Tiền Nhân Việt
Nam.
Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam
đã thành công trong việc tẩy não nhân dân là chà đạp nhân quyền,
thủ tiêu công lý, phán xét một chiều các vua quan nhà Nguyễn
bằng những ngôn ngữ thiếu trầm tĩnh và đầy tính chất khủng bố
cực đoan. Xin hỏi, dân tộc Việt Nam sẽ gặt hái gì trên chính
trường văn hóa thế giới?
Chính quyền Cộng Sản Việt Nam hôm
nay sẽ trả lời ra sao, một khi cho rằng ta cứ thiếu lễ nghĩa
liêm xỉ, cứ hãm huyết phun người... thì chính nghĩa giải phóng
dân tộc với thực dân Pháp xâm lược ngày trước, có biên giới nào
khác biệt hay chăng?
1. Lịch Sử Việt Nam Tập I
Đọc Lịch Sử Việt Nam (1971) tập I, tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã
Hội Việt Nam đều lập luận một chiều theo chủ trương của phong
trào cải tạo tư tưởng Cộng đảng, chớ họ không viết theo tư duy
và sử học cá nhân:
- Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác
trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần
nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản
đồ thế giới.
- Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng
một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của
người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau
khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân. - Triều Nguyễn là vương triều tối phản động. Bản chất cực
kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua
những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh
đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn
kể cả phụ nữ và trẻ em.
- Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân
tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến
phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai
cấp địa chủ.
Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh
(1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất
sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì
khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám
đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế.
Xuyên qua nội dung người ta thấy
rằng những đề tài trên đây không được thảo luận một cách thẳng
thắn và đúng đắn theo khoa học, mà chỉ tòan là những lời bịa đặt,
xuyên tạc và thóa mạ nhà Nguyễn nhằm truyền dạy cho lớp người
thanh thiếu niên Việt Nam hôm nay tỏ lòng vô ơn tiền nhân, phủ
nhận những nỗ lực, những giá trị thành quả trong đại cuộc xây
dựng và kiến thiết đất nước của vua quan Việt Nam nói chung, và
triều Nguyễn nói riêng.
Tất cả làm thành một nhát gươm
chặt đứt nguồn mạch hay truyền thống chính trị nghìn đời của Tổ Tiên
Tiền Nhân Việt Nam, khiến cho toàn dân không còn Hồn Nước (mà chỉ
còn là lớp người nô lệ tân thời vô hồn). Vì rằng Hồn Nước phải
bao gồm toàn thể lịch sử, tinh hoa văn hóa mà tạo nên tinh thần
sống của một dân tộc.
Hồn mất trước, Nước mất sau.
2. Lịch Sử Việt Nam Tập II
Đọc tiếp cuốn Lịch Sử Việt Nam (1985) tập II phát hành mới đây,
các tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam lại tiếp tục đấu tố
nhà Nguyễn theo kiểu lên án địa chủ trong thời kỳ cải tạo nông
nghiệp của đảng.
Cộng Đảng đã không tự giới hạn
được ngôn ngữ, cho nên mỗi câu mỗi chữ trong những bài viết đã
làm cho người đọc có cảm tưởng như mình đang nghe “Bác Đảng”
chửi – trong khi vua quan nhà Nguyễn đã về chầu Quốc Tổ và Hồn
Thiêng Sông Núi – bởi thế các Ngài đã không thể lọt tai.
Trước mắt chỉ có ba thành phần là
tác giả, Cộng Đảng, và bạn đọc (như tôi đang đọc), nhưng khi xem
những tài liệu này người ta không thẩm định được nội dung mà “Bác
Đảng muốn nói gì?” Phá nước chăng? Bán nước chăng? Nô lệ Tàu, có
lẽ là như vậy!
- Triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt – Vương triều
Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn – Cực kỳ ngu xuẩn.
- Nhà Nguyễn đã tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ
lậu mục nát – Chế độ áp bức bóc lột nặng nề – Chính sách kinh tế
lạc hậu và phản động – Chính sách đối ngoại mù quáng.
- Tên chúa phong kiến bán nước số một là Nguyễn Ánh – Nguyễn Ánh
cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù
giai cấp.
Đang khi theo sử liệu của Việt
học cho chúng ta thấy rằng: Người khởi đầu dựng nghiệp nhà
Nguyễn, là Nguyễn Kim (1468-1545). Nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp
ngôi năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống nhà Mạc.
Nguyễn Kim tìm được người con vua
Lê Chiêu Tông, lập ngôi nối tiếp là vua Lê Tang Tông. Nhờ công
này Nguyễn Kim được phong chức Quốc Công, cai quản quân đội.
Nguyễn Kim về sau bị người họ Mạc
dùng thuốc độc trả thù. Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn
Uông và Nguyễn Hoàng được phong Quận Công, nhưng binh quyền lại
lọt vào tay anh rể, Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm giữ quyền chỉ huy quân
đội và trông coi triều chính. Để giảm bớt thế lực họ Nguyễn,
Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho mình cũng bị diệt trừ,
Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa theo lời khuyên “Hoành
sơn nhất đái vạn dung thân: Một dải Hoành sơn có thể dung thân
lâu dài” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm –
Chúng ta cần thấy rằng chỉ một
lời nói của cụ Trạng Trình đã giải quyết cho hai thế lực thù
nghịch để cứu Dân Việt thóat cảnh đao binh, và đồng thời còn mở
rộng thêm đất đai cho Việt Nam – chớ không làm mất đất đai, hải
đảo như triều đại Cộng Sản ngày nay.
Trịnh Kiểm giao quyền cai quản
miền Nam thời đó cho Nguyễn Hoàng vào năm 1558, bao gồm phần đất
thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay. Nguyễn
Hoàng lập nên căn cứ phương nam, mở rộng biên giới và xâm lấn
đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua
của Đế Quốc Khmer nhường lại đất xứ Phù Nam, tức miền Nam Việt
Nam ngày nay.
Kết qủa Nhà Nguyễn đã góp công
đầu trong đại cuộc Mở Nước, xây dựng và phát triển đất nước hùng
hậu như trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ do Quốc Sử Quán triều
Nguyễn ấn hành vào thế kỷ 19 đã ghi rõ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường
Sa, và toàn bộ cương vực này là thuộc Đại Việt.
Các chúa Nguyễn ngày ấy, về hình
thức vẫn thần phục vua Lê và xưng chúa. Nguyễn Hoàng được tôn là
chúa Tiên, vì người mở đầu cho sự nghiệp tiên đế của nhà Nguyễn
ở phương nam.
Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc
Nguyên, Chúa Sãi lên ngôi năm 1613, là người mang họ Nguyễn Phúc
và từ đó con cháu trong dòng đều mang họ này. Sáu đời sau Nguyễn
Phúc Khoát lên ngôi vào năm 1738, là người xưng vương, Vũ Vương
vì chúa Trịnh ở phương Bắc đã xưng vương, đang khi vua Lê chỉ
còn hư vị.
Vũ Vương chết, theo di chúc người
nối nghiệp là Nguyễn Phúc Luân, nhưng phản thần Trương Phúc Loan
lập Nguyễn Phúc Thuần 12 tuổi lên ngôi Định Vương năm 1765, nhằm
dễ bề thao túng. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên
bị dân chúng óan hận và nổi lên khởi nghĩa, trong số ấy có anh
em nhà Tây Sơn.
Tây Sơn được lòng dân nên thế lực
rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó. Nhân cơ hội
này, chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị
Trương Phúc Loan, nhưng sau khi bắt được Trương Phúc Loan quân
Trịnh tiếp tục đánh chiếm Phú Xuân, năm 1775.
Chúa Nguyễn phải chạy vào Quảng
Nam, tới năm 1777 Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết
tất cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương
Nguyễn Phúc Dương, và nhiều người và thuộc dòng tộcNguyễn Phúc,
chỉ còn người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân, là Nguyễn Phúc
Ánh trốn thoát.
Năm 1778 Nguyễn Phúc Ánh quay lại
và tập hợp lực lượng đánh chiếm Gia Định và tới năm 1780 xưng
vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Vương khiến
vương trốn chạy và quay lại nhiều lần.
Mãi cho đến năm 1790 Gia Long mới
chiếm trọn Gia Định, tỏ ra là một trang anh hùng nghĩa khí, xây
dựng nền độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi và thống nhất lãnh thổ
Việt Nam. Vua Gia Long rất xứng đáng cho con cháu Việt Nam chúng
ta noi gương!
3. Đại Cương Lịch Sử Việt Nam
Đọc tiếp đến cuốn sử mới đây có
tên, Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007) do Đinh Xuân Lâm biên
soạn. Ông Lâm được chính quyền Việt Nam hiện thời ca tụng là
giáo sư có công xây dựng Bộ môn Lịch sử cận đại và hiện đại…
Giáo sư Lâm còn là Phó Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam,
và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm UNESCO. Tác giả viết:
-Triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong
kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ.
- Nhà Nguyễn là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập
trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi
chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban
hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho
tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Và, các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp của Nhà Nguyễn,
ông Lâm cho rằng nó “đã xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị.”
- Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền
đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi
cách.
- Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần
chúng.
- Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các
nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất,
tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối
với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm
gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo.
- Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy
yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư
bản phương Tây.
Xuyên qua nội dung của cuốn sách
Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007), chúng ta thấy rằng gía trị
của một người mưu cầu hạnh phúc cho dân, cho nước đã chỉ có thể
được đo bằng sự hy sinh, lòng xả kỷ và tinh thần phục vụ lợi ích
dân nước…
Thú thật là đọc một vài bộ sách,
một vài hình thức hoạt động thì chưa phải là điều “ắt có và đủ”
để kết luận việc làm của giáo sư như theo lời tán tụng “nhà nước…”
-- chỉ là “Chí Phèo” tên một nhân vật trong tiểu thuyết tiền
chiến. Đây cũng là điều hoang tưởng của nhiều giáo sư… thái độ
ấy, người ta cho là quá khích, cực đoan, không ích lợi gì cho
việc phát triển đất nước mà tác giả muốn trình bày.
4. Xuyên tạc lịch sử và chà đạp sách sử
“Đại Nam Thực Lục”
Đại Nam Thực Lục là bộ sách ghi
chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa
(1558) cho tới đời vua Khải Định (1925), do Quốc Sử Quán triều
Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên được viết
vào năm Minh Mạng thứ hai (1821) sau 88 năm công phu soạn thảo
tới năm 1909 mới hoàn thành: Tiền biên có 2 kỷ và Chính biên 6
kỷ, và được dịch ra Quốc Ngữ từ nguyên bản Nho Ngữ vào năm Khải
Định thứ 9 (1924) để giúp cho chúng ta tra cứu dễ dàng.
Thế nhưng vào năm 1961, trước khi
cho sửa đổi và tái bản Đại Nam Thực Lục, các tác giả của Ủy Ban
Khoa Học Xã Hội Việt Nam đã đồng loạt viết tài liệu giới thiệu
với chủ đích đấu tố bộ sử triều Nguyễn như đã thực hiện trong
phong trào cải tạo ruộng đất, với hai chiến thuật mà họ đã công
phu tập luyện tới mức vô địch thượng thừa; đó là đánh “du kích
và bắn sẻ” đồng thời khai thác triệt để hai chiến thuật này vào
các mặt trận quân sự, kinh tế, xã hội, ngoại giao, tôn giáo và
văn hóa, khiến cho người ta nhớ lại câu chuyện Gà đẻ trứng vàng
trong cổ học Đông phương, để phòng ngừa du kích và bắn sẻ.
Các ông trong ban quản giáo này
có con gà đẻ trứng vàng. Lúc đầu họ chờ gà đẻ tự nhiên mỗi ngày
một trứng, nhưng một hôm họ làm theo chủ trương chỉ đạo nhà nước,
muốn có nhiều vàng một lúc và sử gia quyết định làm thịt con gà
Đại Nam Thực Lục.
Nhưng khi mổ gà ra, lại chẳng
thấy có trứng vàng. Tác giả đã không hiểu con gà nhà Nguyễn là
nguồn sản xuất và cái trứng, thành tựu cải cách, là sản phẩm.
Hóa ra thì tất cả chỉ muốn “lượm trứng,” chớ không “xuất của” để
mua thực phẩm nuôi gà:
- Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ
Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh (1558-1888) những công việc mà các
vua chúa nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự
chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc
chúng ta.
- Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn
làm công việc biên soạn Đại Nam Thực Lục đã cố gắng rất nhiều để
tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn…
- Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của
lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử... vẫn phơi
bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không
những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm,
đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức.
Tóm lại, chúng tôi mong rằng các
sách sử tương tự như của Giáo sư Đinh Xuân Lâm thì cần công khai
nhận lỗi, viết lại, tôn trọng lịch sử, và những gì trình bày nơi
đây không làm phiền lòng tác giả cũng như độc giả.
Chúng tôi hy vọng tình trạng phê
bình chủ quan, giáo điều tắc trách về sử liệu của phong trào cải
tạo tư tưởng, cần phải được chấm dứt ngay và không còn tái diễn,
để trả lại không khí trong sạch của sử học cho những người Con
Cháu Việt đang cố gắng tô điểm cho nền văn hóa và lịch sử, ngõ
hầu tìm lại truyền thống bất khuất của Tổ Tiên để thực thi đại
cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay như ghi nhận trong kiệt tác Học
Thuyết Tiên Rồng.
II. Di Sản Nhà Nguyễn
Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam
bóp méo lịch sử, tuyên truyền xuyên tạc Vương triều nhà Nguyễn,
được đăng tải rộng khắp trên các diễn đàn nghiên cứu về lịch sử
văn học, địa lý và tư tưởng Việt Nam, biểu thị trong ngành đại
học sư phạm hoặc trong sách gíao khoa của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo,
được giảng dạy từ bậc tiểu học, trung học và đại học trải qua
hơn 2/3 thế kỷ nay.
Sách sử giáo khoa thư đã giáo dục
tầng lớp thanh thiếu niên, đào tạo cho họ phẫn uất căm thù vua
quan triều Nguyễn, cắt đứt truyền thống chính trị dân tộc, vô
cảm trước sự kiện mất đất mất đảo, phó mặc vận mệnh Tổ Quốc rơi
vào tay giặc phương Bắc như thời nhà Hồ, từng xảy ra nạn “Mất
Nước” trong lịch sử.
Thực tế, nhìn vào Việt Nam hôm
nay: các hãng xưởng Trung Quốc mọc lên khắp nơi từ thôn quê cho
tới thị thành, và từ đội công nhân kỹ thuật, toán bảo vệ canh
gác, các phương tiện sản xuất, hay bảng tên cầu đường đều là Bắc
Thuộc.
Hàng hoá Trung Quốc tràn ngập,
phá giá thị trường và làm lũng đoạn nền kinh tế nước ta. Ô nhiễm
Trung Quốc thải đầy sông nước, mùi hôi thối xông lên nồng nặc và
hủy diệt môi sinh dân ta, gây nhiều biến chứng ung thư độc hại.
Thể chế Trung Quốc lại được đảng
Cộng Sản Việt Nam hôm nay tôn trọng tiếp nhận, làm khuôn mẫu
toàn trị nhằm đàn áp bóc lột dân lành – chớ chúng ta chưa bàn
tới những vụ hải đảo Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa hay đất đai biên
giới đã mất, hoặc do những đảng viên đầu tỉnh ở Lạng Sơn, Quảng
Ninh và nhiều nơi khác đã cho công ty xí nghiệp Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan thuê đất trồng rừng nguyên liệu.
Pháp lệnh Trung Quốc, từ cao
xuống thấp đều được truyền sang để cho chính quyền Việt Nam thi
hành. Đó chính là hậu quả tai hại của nền giáo dục và đào tạo
của Việt Nam từ năm 1953 tới nay.
Xã hội miền Bắc từ năm 1953, miền
Nam từ sau năm 1975, chúng ta thấy cảnh “dân suy nước nhược,”
lòng người ly tán, thờ ơ, vô cảm trước vận hệ tồn vong. Những di
tích lịch sử triều Nguyễn bị nhà cầm quyền phủ nhận, không bảo
quản và phó mặc cho thời gian biến thành phế tích “phong kiến,”
vật liệu bị đánh cắp, sử liệu bị tịch thu, hoặc sửa đổi nội
dung.
Những bảng tên trường học, đường
phố hay những công viên công cộng có dính líu tới danh xưng của
vua quan triều Nguyễn đều bị xóa sạch, kể cả những danh nhân hay
anh hùng dân tộc, như vua Duy Tân chống Pháp cũng bị gạch tên.
Tới nay, nhờ dịch vụ du lịch
thương mại, nhà cầm quyền mới chịu cho chỉnh trang một phần Đại
Nội nhằm thu hút ngoại tệ, và lại còn đặt thượng cụ cái “Hình
Bác Hồ” cười đắc thắng dưới ngọn “Cờ Sao Bắc Thuộc” trên đỉnh
cao chót vót của Kỳ Đài trong Kinh Thành Huế, nhằm trêu chọc
Việt kiều về thăm.
Đang khi, ai mà chả biết Hồ Chí
Minh có công lường gạt Hoàng Đế Bảo Đại, truất phế trong cuộc
Cách Mạng Tháng 8, vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, khi lừa vua gia
nhập Việt Minh ở Ngọ Môn Quan trong Kinh Đô Huế.
Giờ đây trở về viếng thăm Cố Đô
Huế trong dịp Tết Canh Dần, và trước án thờ các vị minh quân
thánh chúa nhà Nguyễn, tôi thành kính tri ân và nguyện cầu Các
Ngài tha thứ, và xin dìu dắt đàn con cháu biết thực tâm nối bước
Tổ Tiên, luôn thể hiện tận tình sở học.
Hơn thế nữa Các Ngài đã cố công
xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi, thống nhất lãnh thổ, phát
triển văn hóa giáo dục, kinh tế, xã hội, quân sự, ngoại giao và
để lại nhiều di sản quý báu cho lịch sử. Ví dụ:
- Nhã Nhạc Cung Đình Huế
Nhã Nhạc Cung Đình Huế đã được Tổ
chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO năm
2003 công nhận là một “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của
nhân loại.
Theo đánh giá của UNESCO, trong
các thể loại nhạc cổ truyền chỉ có nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc
gia. Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 vào thời nhà Trần,
cho tới nhà Nguyễn thì Nhã Nhạc Cung Đình Huế đạt tới hoàn chỉnh
và siêu việt để được gọi là Quốc Thiều.
- Mộc Bản Triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn cũng là di
sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam do UNESCO công nhận
vào ngày 31 tháng 7 năm 2009. Số mộc bản này hiện đang bảo quản
tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia Đà Lạt, Lâm Đồng.
Mộc bản gồm có 34,618 tấm, là
những bản văn chữ Việt Nho, khắc ngược trên gỗ để in giấy ra
sách, và phát hành tại Việt Nam vào thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20.
Tài liệu mộc bản này do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn tạo ra, với
những loại gỗ dùng khắc tài liệu thường là gỗ thị, gỗ mít hay gỗ
nha đồng.
Nét chữ trên tài liệu mộc bản rất
là tinh xảo sắc nét, và còn là tài liệu quý giá trong việc
nghiên cứu lịch sử và văn hóa nước ta. Người có công lưu giữ Mộc
Bản Triều Nguyễn là ông Cố Vấn Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Nhu
(1911-1963) làm Quản Thủ Thư Viện ngày ấy.
- Kinh Thành Huế
Cố Đô Huế cũng được UNESCO năm
1993 công nhận là “Di sản Văn hóa Thế giới.” Hiển hiện trước mắt
tôi đây, là một kinh thành với những kiến trúc quy mô đồ sộ,
được xếp hạng nhất trong các Di Tích Lịch Sử Việt Nam.
Từ phong cách cấu trúc cho tới
phương pháp phòng ngự của Vua Gia Long, người ta thấy kinh thành
này trông tợ như một pháo đài hùng tráng, mà ngày xưa, thuyền
trưởng người Pháp Le Rey (1819) khi vừa đặt chân tới Kinh Thành
Huế đã có nhận xét: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất,
đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William
ở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng.”
Cố Đô Huế tọa lạc bên tả ngạn
sông Hương có diện tích hơn 500 mẫu đất, ba vòng thành bảo vệ.
Trong khuôn viên Ðại Nội được xây theo hình vuông, mỗi cạnh 600
thước, bằng gạch cao 4 thước, dày 1 thước, bên ngoài thành có
hào và 10 cầu đá bắc qua hào để ra vào lũy.
Bốn góc thành có 4 tháp canh, bốn
mặt thành có 4 cửa ra vào đối diện nhau gọi là Ngọ Môn, Thần Vũ
Môn, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn. Ðại Nội có hơn trăm công trình
kiến trúc nguy nga tráng lệ, khu rộng nhất là Tử Cấm Thành (Cố
Cung) xây vuông mỗi cạnh 300 thước, tường cao 3 thước rưỡi và có
hơn 50 công trình xây dựng với nhiều cung điện.
Chữ Tử có nghĩa là màu tím, trong
chuyện thần thoại Tử Vi Viên. Tử Cấm Thành chia thành hai khu
ngoại triều và nội đình, và Ngọ Môn là cửa chính vào Cố Cung,
đặt ở phía Nam trên trục chính. Ngọ Môn được xây dựng theo kiểu
hình chữ U, phía dưới là khối tường thành dày và cao, có trổ 5
cửa vòm vì thế Ngọ Môn có tên Ngũ Phượng Lầu.
Cụ xứ Huế kể chuyện cho tôi nghe.
Ngày vua Gia Long du thuyền trên sông Hương, thấy núi Bằng Sơn
cao khoảng 105 thước, có dáng non bộ cân xứng với phong thủy. Ở
hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn,
trông tợ thanh long bạch hổ phục chầu.
Nhà Vua quan sát, thấy Bằng Sơn
là bình phong hay bàn thạch cho mình ngự mà trông việc thiên hạ,
vì thế vua đã chọn Bằng Sơn làm án phía trước, tức hệ thống
tường thành thiên nhiên bao quanh để bảo vệ cho Kinh Thành Huế
mà đổi tên núi Ngự Bình.
Năm đó là 1805, Vua Gia Long khởi
công xây thành. Thành được xây theo phong cách tổng hợp giữa
kiến trúc Tây phương và kiến trúc thành lũy của Đông phương, tạo
cho thành mang mặc sắc thái dân tộc. Việc xây cung đình, nhà vua
còn đặt ra những phần thừa kế và tiếp nối truyền thống kiến trúc
của các Nhà Lý Trần Lê.
Đặc điểm vua tiếp nhận tinh hoa
kỹ thuật và mỹ thuật Trung Quốc nhưng biến chế Việt Nam hóa. Nhà
vua cũng rút tỉa kỹ nghệ hóa do những kỹ sư Pháp hoặc Tây phương
đang phục vụ dưới triều, cho nên thiết kế hệ thống hào lũy, hệ
thống thành quách và hệ thống cung điện đều đặt trên hướng trục
chính là Tây Bắc và Đông Nam theo các yếu tố ngũ hành tương ứng
với ngũ phương.
Xây dựng mãi cho tới năm 1832,
Kinh Thành Huế mới được hoàn tất dưới triều Minh Mạng… rồi trải
qua hai trăm năm nay, cố đô vẫn còn như nguyên vẹn với gần 140
công trình kiến trúc lớn nhỏ trước mắt.
- Mộng Lành Thành Mộng Dữ
Khi nhìn hình Hồ Chí Minh treo
trên Kỳ Đài, Cụ già xứ Huế nói rằng “Ước mơ của họ: mộng lành
thành mộng dữ, vì nước Việt Nam hôm nay được thế giới xếp vào
hạng áp chót.”
Giấc mộng “đả thực bài phong,”
“không gì quý hơn độc lập tự do,” “đánh Mỹ xong ta xây đẹp bằng
mười” tất cả trở thành kinh hoàng, là do ông Hồ và đám hậu duệ
cố chấp và không chịu tiến lên, không theo kịp trào lưu văn minh
và phát triển của thời đại chính trị kỹ nghệ liên bang.
Ngược lại họ kéo Việt Nam trở về
thời đại săn hái, ghi nhận trong Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân… theo chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.”
Vì độc tài chậm tiến, ác mộng xảy
ra từng giây từng phút, lớp đảng viên cầm quyền lãnh đạo thì thi
nhau tham nhũng để có phương tiện cho con cháu du học nước ngoài,
và cũng là mở cửa để thoát hiểm khi có biến động chính trị xảy
ra. Tới nay ai cũng muốn cần phải thay đổi chính trị thì mới có
thể phát triển kinh tế quốc gia.
Về phương diện đạo đức Cụ chỉ ra
rằng “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam càng ngày càng băng hoại,” vì
nghèo đói, cho nên dân chúng thường tập trung vào các thành phố
lớn, như Sài Gòn để tìm kiếm việc làm và sống dựa số tiền thân
nhân nước ngoài gởi về, hoặc những dịch vụ bất chính của nhiều
thương gia ngoại quốc đầu tư, rửa tiền... Thế hệ con cháu cán bộ
cao cấp cũng chỉ noi gương bóc lột, tham nhũng, gian lận chính
trị của lớp cha anh với những ấn tượng xấu xa.
Do đó, cần thay đổi tận nền tảng
chính trị, nhanh chóng xóa bỏ chế độ độc tài lạc hậu mới mong
làm cho dân giàu nước mạnh và sống hòa bình trong cộng đồng thế
giới.
Tôi bàng hoàng nghe Cụ nói, và Cụ
chính là một người Việt Nam thuần túy. Trong những câu chuyện Cụ
kể, tôi cũng hình dung ra được công trình dựng nước/ giữ nước
của Tổ Tiên Dân Tộc và phân biệt chánh tà.
Cụ đã không bị ảnh hưởng bởi trào
lưu ngoại lai qua sách sử tuyên truyền, không bị đầu độc bởi hệ
thống loa phóng thanh của “nhà nước” rêu rao hằng ngày, cho nên
Cụ là một người “hữu thần.” Hữu thần khác biệt với “vô thần” dù
là cộng sản hay tư bản – cũng luôn coi con người là con thú,
hoặc máy móc.
Để con người được thật sự sống
như thân phận con người, Cụ thể hiện quan niệm hữu thần, là vì
Cụ tin có Ông Trời, có Thần Thánh, Hồn Thiêng Sông Núi, Tổ Tiên
Ông Bà… và áp dụng vào cuộc sống hiện tại, quan niệm hữu thần,
chính là Phúc Đức.
Bởi thế tôi cũng cảm nhận rằng:
Quan niệm Phúc Đức của Cụ là nền tảng vững chắc nhất, thâm sâu
nhất, tinh túy nhất cho tinh thần chiến đấu của mọi người chúng
ta, vì phân định được rõ ranh giới chánh nghĩa và gian tà, cứu
nước hay cướp nước, giữ nước hay bán nước.
Theo truyền thống và niềm tin xưa
nay của dân tộc, chúng ta biết rằng: bất cứ việc thiện nào cũng
là việc Phúc Đức! Phúc Đức đó ta làm ta hưởng, mà còn để lại,
truyền lại cho vợ, chồng, con, cháu và dòng tộc dân tộc hưởng
nhờ: Làm lành để đức cho con.
Muốn được thì phải tích đức,
nghĩa là làm phúc, làm việc thiện và tránh làm ác, “Chung thân
hành thiện, thiện do bất túc, nhất nhật hành ác, ác tư hữu dư:
Suốt đời làm điều lành, vẫn chưa đủ, một ngày làm điều ác, ác đã
quá thừa.”
Vậy mà trong đời sống con người,
có việc Phúc Đức nào to lớn cho bằng việc dấn thân giúp đỡ trăm
triệu người Việt Nam hiện nay, cứu nguy Dân Tộc, bảo vệ và phát
huy truyền thống của Giống Nòi, lấy lại Giang Sơn gấm vóc mà Tổ
Tiên Ông Bà, qua hình ảnh Triều Nguyễn dày công Mở Nước và Giữ
Nước: Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho 1/ hay
100 triệu người, đang chờ.
III. Chính Trị
1. Định Chế Làng Nước
Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế,
Gia Long đã xây dựng và phát triển định chế làng nước, một tuyệt
tác chính trị của tổ tiên được lưu truyền trong lịch sử, nhằm
gíup dân chúng bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi sự vi phạm
hoặc xâm phạm từ nước ngoài, kể cả bằng những biện pháp trấn áp
quyết liệt công giáo. Định chế làng nước mà người viết học hỏi
nhà Nguyễn, là đặc điểm giúp cho dân tộc ta thoát nạn quân chủ
chuyên chế ở thời trước, mà còn là phương thức giúp chúng ta
thoát nạn “dân chủ đấu thầu” trong thời nay.
Học giả Trần Trọng Kim trong Việt
Nam Sử Lược (1919) nói rằng, “người ta thường hiểu mấy chữ quân
chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Âu Tây, chứ không biết
mấy chữ ấy theo cái học Nho Giáo có nhiều chỗ khác nhau.” Theo
nguyên tắc tổ chức triều đình nhà Nguyễn, khi có việc gì quan
trọng vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét.
Các quan bất kỳ lớn bé đều được
đem ý kiến của mình mà trình bày. Khi việc nào đã quyết định thì
đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Vua tuy có quyền
lớn nhưng không được làm điều gì trái nguyên tắc.
Nếu vua có làm điều gì sai thì
các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn, và thường là vua
phải nghe lời can ngăn của những người này.
Trong định chế làng nước, quan
chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống
làng thôn đều thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa
chọn lấy người đại diện của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại
đia phương.
Tổng gồm có vài làng hay xã, có
một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử
ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Khác với tổ chức chính trị của
nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt chẳng những không can
thiệp vào đời sống từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào
nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi
làng là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập. Việc làng
thì người dân tự lập và tự quyết.
Làng tự lập chẳng những có ban
quản trị riêng do chính dân bầu ra, mà còn có điều lệ riêng cho
hệ thống hành chánh trong làng. Làng có ngôi đình thờ vị Thành
Hoàng riêng, với những nghi thức nghi lễ riêng.
Làng có tổ chức trị an riêng với
những tiêu chuẩn thưởng phạt do dân trong làng quy định. Làng có
tài sản riêng và toàn quyền xử dụng ngân sách tài chánh theo nhu
cầu.
Trong phạm vi làng, cả quyền phép
của vua quan cũng kiêng nể những điều lệ riêng này. Phép vua
thua lệ làng… Xin hỏi, có chế độ nào trực tiếp do dân, của dân,
và vì dân hơn thể chế dân chủ của Làng Nước Việt?
Tóm lại, hệ thống làng Việt Nam
đã áp dụng hai nguyên tắc căn bản của thể chế chính trị văn minh
hiện đại là phân quyền và tản quyền.
Nguyên tắc tản quyền: Trung ương
dành cho địa phương, cho dân làng một số quyền tự chủ và tự do.
Truyền thống làng nước Việt Nam đã được áp dụng từ thời lập quốc
cho đến cận đại, và bị Hồ Chí Minh và Cộng Đảng xóa bỏ.
Giữa thế kỷ 15 Hương Ước hay
Khoán Ước đã thành văn và rất phổ thông trong cơ cấu Hương Làng
Việt Nam. Hương Ước là bản ghi lệ làng, tức Hiến Pháp Làng ấn
định hệ thống tổ chức hành chánh, luật lệ của làng.
Và từ đó, Luật Pháp của Nước chỉ
là Hương Ước của một tập hợp các Làng.
Chúng ta có thể nhìn thấy hình
ảnh của Làng Nước Việt Nam qua thể chế chính trị Liên Bang hiện
nay của nhiều quốc gia trên thế giới. Cấp tiểu bang, địa phương
có quốc hội và ngân sách riêng. Bởi thế người dân mới có quyền
định đoạt một số quyền lợi mà họ có nghĩa vụ đối với quốc gia.
Nguyên tắc phân quyền: Cơ cấu tổ
chức Làng áp dụng nguyên tắc phân quyền, gồm có:
- Hội Đồng Kỳ Mục hay Tiên Chỉ, gồm những vị bô lão hoặc đại
diện các “Tộc” trong Làng. Hội đồng này quyết định những việc
quan trọng của Làng, tương đương như “Quốc Hội” cấp nước. Hội
Nghị Diên Hồng đời Trần đã mang được hình ảnh này ở cấp quốc gia.
- Ban Lý Dịch hay Chức Dịch là những người điều hành công việc
hành chánh của Làng. Chúng ta có thể hình dung sự phân quyền
trong Làng qua hai cơ cấu “hành pháp” và “lập pháp” của quốc gia
thu hẹp này.
2. Tổ Chức Triều Chính
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và
trở thành hoàng đế, Gia Long tiếp tục kiện toàn hệ thống hành
chánh và quan chế của một chính quyền mới. Xét về căn bản vua
vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung
ương giống như các triều đại ngày trước.
Đứng đầu nước là vua, giữ trọng
trách và quyền hành của dân nước. Giúp vua giải quyết giấy tờ,
công văn ghi chép là Thị Thư Viện, đến thời Minh Mạng thì đổi là
Văn Thư Phòng và năm 1829 gọi là Nội Các.
Về việc quốc gia đại sự vua giao
bốn vị Điện Đại Học Sĩ, gọi là Tứ Trụ Đại Thần, đến năm 1834 thì
đổi thành Viện Cơ Mật. Ngoài ra còn có Tông Nhân Phủ phụ trách
các công việc của Hoàng gia.
Để đề cao vai trò nhà vua và uy
quyền của người nguyên thủ quốc gia, ngăn chặn nạn quyền thần
lấn át hoàng đế, Gia Long đặt ra lệ Ngũ bất: Trong triều không
lập tể tướng, thi đình không lấy trạng nguyên, trong cung không
lập hoàng hậu, không lập đông cung thái tử, không phong tước
vương cho người ngoài họ vua.
Bên dưới, triều đình lập ra sáu
Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo
các công việc quốc gia.
Bộ Lại: điều hành việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu
sắc.
Bộ Hộ: điều hành việc đinh điền thuế má, tiền bạc tài chánh.
Bộ Lễ: điều hành việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi
cử.
Bộ Binh: điều hành việc quân sự, quốc phòng, binh bị.
Bộ Hình: điều hành việc pháp luật.
Bộ Công: điều hành việc xây dựng cung điện, dinh thự, đường xá.
Bên cạnh sáu bộ, còn có Đô Sát
Viện, tức Ngự Sử Đài bao gồm 6 khoa, chịu trách nhiệm thanh tra
quan lại.
Hàn Lâm Viện phụ trách các sắc dụ,
công văn, 5 Tự Phụ Trách coi một số sự vụ, Phủ Nội Vụ quản trị
các kho tàng, Quốc Tử Giám phụ trách giáo dục, Thái Y Viện trách
nhiệm việc chữa bệnh và thuốc thang, và có một số Ty, Cục khác.
3. Quy Chế Phẩm Trật
Gia Long rút tỉa kinh nghiệm của
các triều đại trước, nên đã không truyền ngôi cho con nhỏ đần
độn. Hoàng tử Cảnh là con trưởng đã chết, theo nguyên tắc đích
trưởng kế thừa thì truyền ngôi cho con của Đông Cung Cảnh, nhưng
Vua Gia Long đã phong con thứ là Minh Mạng làm thái tử để được
truyền ngôi vua.
Kể từ thời Minh Mạng ngạch quan
lại được chia thành hai ngành Văn – Võ, xác định rõ giai chế
phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và
tòng hai bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc, còn ở thời bình,
quan võ phải đặt dưới cấp quan văn cho dù cùng phẩm với mình.
Quan Tổng Đốc là văn cai trị tỉnh,
lại vừa là võ chỉ huy quân lính tỉnh. Lương bổng của các quan
tương đối ít, nhưng quan lại được hưởng thêm nhiều quyền lợi,
cho họ được khỏi đi lính, làm sưu hay miễn thuếtùy theo quan văn
hay võ, hàm cao hay thấp.
Ngoài ra con cái các quan còn
được hưởng lệ tập ấm.
Hệ thống hành chánh và quan lại
của triều Nguyễn cũng gọn nhẹ và hữu hiệu, mặt khác tham nhũng
vẫn là mối lo nhằm trong sạch hàng ngũ quan chức. Để hạn chế tệ
nạn tham nhũng, nhà vua đặc biệt quan tâm đến chế độ lương bổng,
bảo đảm cuộc sống ổn định, khá giả cho đội ngũ quan lại.
Bộ Hoàng Việt Luật Lệ của Triều
Nguyễn cũng đặt ra những tưởng thưởng, những hình phạt, và những
điều lệ nghiêm khắc đối với những sự hà lạm của quan lại như
tiếm nghịch, biển thủ của công, ăn hối lộ và đút lót. Xét ra, bộ
luật nhà Nguyễn còn hữu hiệu và ưu việt hơn cả 92 điều luật
phòng chống tham nhũng của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam thời
nay.
4. Phân Chia Hành Chánh
Minh Mạng thực hiện một cuộc cải
cách hành chính lớn, theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh,
trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất
hiện ở Việt Nam.
Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn
từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Hà
Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Hưng Yên,
Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa,
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Cùng còn lại ở phía Nam được chia
làm 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định
Tường, Hà Tiên. Và Thừa Thiên nơi có kinh đô Phú Xuân là phủ
trực thuộc trung ương.
Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc, mỗi
người phụ trách hai ba tỉnh và chuyên trách một tỉnh, Tuần phủ
dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ một tỉnh. Giúp việc có Bố Chánh Sứ
ty lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính.
Án Sát Sứ ty lo về an ninh, luật
pháp. Lãnh Binh phụ trách về quân sự. Tất cả các quan chức đứng
đầu tỉnh đều do chính quyền Trung ương trực tiếp bổ nhiệm, thuở
ban đầu là võ quan cao cấp, và về sau nhà Nguyễn bổ dụng các
quan văn.
Bởi thế chúng ta thấy một hệ
thống chính quyền được phân biệt rõ ràng giữa trung ương và địa
phương, và trong hệ thống này nhà vua, nguyên thủ quốc gia có
được nhiều quyền lực hơn so với các triều đình ngày trước.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu,
tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện,
từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Nhìn chung là
cơ cấu hành chánh của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để
triều đình có thể dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ mỗi khi có
biến loạn xảy ra.
IV. Kinh Tế
1. Nông Nghiệp
Trong suốt dòng lịch sử làng là
đơn vị kinh tế vừa là đơn vị quốc phòng, là cơ sở sản xuất vừa
là tiền đồn giết giặc, giúp mọi người no cơm ấm áo vừa tăng
trưởng trọn vẹn… Hệ thống tổ chức làng trở thành quốc sách giữ
nước và mở nước hoàn chỉnh nhất, hữu hiệu nhất, thành công nhất
mỗi khi có giặc xâm lăng Việt Nam, nguyên lý ấy gọi là Toàn Dân
Toàn Diện.
Bởi thế vấn đề ruộng đất trong
làng, cũng được mọi người mặc nhiên thừa nhận là của công, của
vua. Ngay từ thời nhà Đinh hay tiền Lê… vua có đặc quyền sở hữu,
và trao lại cho làng cái chủ quyền hưởng dụng.
Nhưng trong thực tế, những ruộng
đất do người dân cày cấy lâu ngày lại biến thành của riêng, tư
điền, và rồi tư nhân có thể mua bán, đổi chác, kế thừa… hoặc trở
thành những lãnh chúa từng sinh sát trên các lãnh địa như bao xã
hội khác.
Bởi thế triều đình Việt Nam, muốn
cho toàn dân an cư lạc nghiệp thì phải cải cách ruộng đất, bằng
cách trưng dụng tư điền và đem ra chia nhỏ cho mọi người, gọi là
“công điền công thổ và chia đất định kỳ.” – như sách Espuis Des
Lois, Montesquieu cũng nói, “Trong một nền dân chủ tốt,
chia đều đất đai chưa đủ, mà cần phải chia nhỏ ruộng đất...”
(dans une bonne de'mocratie, la re'partition e'quitable des
terres ne suffit pas, mais il faut les subdiviser...).
Công điền công thổ được vua trao cho làng và cấm bán, trừ trường
hợp ngọai lệ có thể cầm cố trong 3 năm, nhưng hết hạn phải giao
nạp để làng quân cấp theo tráng đinh, có số ruộng tương tự nhau
gọi là công bằng xã hội.
Với định chế công điền công thổ
và chia đất định kỳ của Việt Nam được gọi là phép quân điền (đất
vua), hòan toàn khác biệt phép tĩnh điền Trung Quốc.
Phép tĩnh điền – theo truyền
thuyết khởi đầu nhà Thương, vấn đề ruộng đất là của thị tộc, và
tới nhà Chu dùng phép tĩnh điền chia đất thành 9 khu hình chữ
tĩnh, khu giữa là công điền và 8 khu khi đem chia cho thị tộc
canh tác rồi nộp hoa lợi cho vua.
Tới đời Xuân Thu, Thượng Ưởng làm
tướng nhà Tần bãi bỏ phép tĩnh điền, cho tự quyền khai thác để
nộp địa tô, sở dĩ họ áp dụng chính sách trung ương tập quyền (quân
chủ chuyên chế) và bãi bỏ phép tĩnh điền là truất phế các lãnh
chúa thị tộc từng khuynh đảo nền chính trị.
Họ không theo Định Chế Làng Nước
như Việt Nam, cho nên xã hội nông nghiệp Trung Quốc sinh quái
thai bất công và đấu tranh với những kẻ chủ trương mưu mô thủ
đoạn mạnh thắng yếu thua, và phân cách xã hội giữa giới địa chủ
và bần nông.
Đang khi định chế bình sản Việt
Nam, với công điền công thổ và chia đất định kỳ, thì cải cách
ruộng đất là hữu sản hoá để toàn dân có cơ hội phát triển đời
sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm chủ (tư hữu).
Bởi thế nhà Trần, Lê Quý Ly đề
xướng phép hạn điền, yêu cầu người có trên 10 mẫu thì nộp làm
quân điền. Ngoài số ruộng quân cấp cho dân, làng giữ lại một số
làm công quỹ như sau.
- Bút điền: ruộng dùng trong việc chi phí bút nghiên, giấy tờ hộ
tịch.
- Trợ sưu điền: ruộng được trích ra cho người nghèo giúp họ đóng
thuế đinh.
- Học điền: ruộng để hội tư văn dùng thuê thày dạy học cho dân
trong làng.
- Cô nhi quả phụ điền: ruộng dành để giúp cho các bé mồ côi,
người già góa phụ nghèo khổ.
a. Chính Sách Ruộng Đất
Để tiếp nối phép quân điền của tổ
tiên, ngay khi lên ngôi vua Gia Long ra lệnh cấm bán ruộng đất,
và quy định chặt chẽ việc cầm cố điền thổ để bảo đảm có đất cày
chomọi người. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) ghi: “Theo
lệ cũ thì công điền công thổ do quân cấp và đem bán riêng là có
tội, do đó nhân dân đều được lợi cả.
Từ đời Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng
công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng
đất công... Nay phàm xã dân có công điền công thổ đều không được
mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền…”
Trải qua cuộc nội chiến lâu dài
dân nước hết sức điêu tàn thống khổ, vừa hết chiến thì lại tới
họa, thiên tai hạn hán, ngập lụt mất mùa xảy ra liên tiếp, và
triều Nguyễn giờ đây mang gánh nặng Việt Nam, thường phải giảm
thuế, miễn thuế và chẩn cấp.
Trong đình thần có ý kiến là tịch
thu ruộng đất bị chiếm trong thời loạn để phân phát lại cho dân
nghèo, nhưng vua Gia Long cho rằng phép này khó thực hiện, cho
nên vua chỉ tịch thu những ruộng đất của quan lại triều Tây Sơn,
và ruộng trang trại riêng của Tây Sơn mà làm quân cấp.
Thời Minh Mạng định lại cấp ruộng
theo khẩu phần. Quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan
xưởng) cùng hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được
một khẩu phần.
Quan lại cường hào được khẩu phần
tốt hơn. Người già, người tàn tật được nửa khẩu phần, và cô nhi
quả phụ thì được 1/3 khẩu phần.
b. Chính Sách Cứu Trợ
Mỗi khi mất mùa lũ lụt, hạn hán
giá gạo thường lên cao gây khó khăn về lương thực, và nạn thiếu
ăn hoành hành tại các tỉnh nghèo nhất hay gặp thiên tai, như
Nghệ An. Dân gặp nạn đói lan tràn khắp vùng thôn quê, nhiều
người tụ họp nhau đi ăn cướp, và những kẻ chống triều đình đã
lợi dụng sự bất mãn của nhóm người đói rét để xách động họ nổi
loạn, như ở Thanh Hóa và Nghệ An vào năm 1819.
Mất mùa thì triều Nguyễn phải áp
dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói, thường là chẩn cấp. Để
có phương tiện thực hiện cứu trợ khẩn cấp triều Nguyễn thiết lập
các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế, được gọi là Bình Chuẩn
Thương.
Người nghèo túng có thể mua gạo
với giá rẻ hơn bình thường, không giới hạn từ 1, 2 phương tới cả
thưng, đấu, bát.
Triều Nguyễn lập Nghĩa Thương là
các kho trữ lúa ở cấp tỉnh và phủ huyện. Những khi đói kém thì
các kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo.
Triều Nguyễn tổ chức Xã Thương
dưới thời Tự Đức, là khi giá gạo đắt thì bán ra và khi gạo rẻ
thì đong lại để lưu trữ. Gạo Xã Thương có thể cho vay thu lợi
dùng vào việc cấp dưỡng binh đinh, giúp kẻ khó nghèo.
Thời Minh Mạng, triều đình bắt
buộc quan lại các tỉnh phải xuất lúa giống trong kho cho dân
nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không bị đình
trệ, việc mất mùa không bị ảnh hưởng nhiều sang các năm tới. Dù
cho các biện pháp cứu tế đã làm cho công quỹ hao hụt, nhưng chỉ
có thể ngăn nạn đói khỏi lan rộng trong thời gian ngắn mà thôi.
Cũng như việc phòng ngừa tăng giá
lương thực chỉ là liều thuốc cấp thời, không thể chữa dứt con
bịnh thiếu hụt lương thực của xã hội. Hơn nữa, quan lại địa
phương tham nhũng làm giảm hiệu năng của các biện pháp cứu tế,
cho nên triều Nguyễn buộc lòng phải ban hành các đạo dụ nghiêm
trị.
Điều này lại thêm cơ hội cho
những thành phần chống đối có dịp tuyên truyền triều đình nhà
Nguyễn tàn ác.
Để làm nhẹ bớt sự khổ cực của
người nông dân, triều Nguyễn cho áp dụng chính sách giảm hay
miễn thuế cho những tỉnh gặp nạn. Các tỉnh bị thiệt hại nặng,
vua cho miễn luôn tất cả các khoản thuế còn thiếu trong những
năm trước.
Vào năm 1841, vua Thiệu Trị cho
dân Hưng Yên được miễn số thuế là 23,385 quan và 83,162 hộc lúa.
c. Chính Sách Khai Hoang và Phục Hóa
Vào đầu thế kỷ 19 sử sách đã ghi
lại rất nhiều cuộc nổi loạn trong dân, bắt nguồn từ suy xụp kinh
tế, nhưng ở miền Nam nhà Nguyễn vẫn tiếp tục công việc khẩn
hoang mở rộng và phát triển nông nghiệp từ thời các Chúa Nguyễn
để lại.
Miền Nam Việt Nam, người dân được
tự do đi khẩn hoang dù là cá nhân hay đoàn thể cũng đều có sự
yểm trợ của triều đình. Sử sách ghi lại tên tuổi nhiều người có
công trạng trong việc đào kênh vỡ đất, như Thoại Ngọc Hầu.
Triều Nguyễn rất quan tâm trong
việc khai hoang phục hóa, cho tiến hành nhiều chính sách khai
khẩn đất hoang khác nhau, và đã mang lại nhiều kết quả thành
công lừng lẫy. Diện tích ruộng đất của Việt Nam tăng lên gấp bội,
vào năm 1847 tính được là 4 triệu 273 ngàn mẫu.
Hai vị quan tổ chức khẩn hoang
nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri
Phương. Tham tán Quân vụ Nguyễn Công Trứ thành danh với ba tác
phẩm khẩn hoang: đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang.
c1. Đồn Điền
Chính sách này chủ yếu dựa vào
việc mộ dân nghèo và đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai
khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được
cai quản theo nguyên tắc đồn điền, không như thôn ấp bình thường.
Sau khoảng thời gian từ sáu đến
mười năm để tạo được cuộc sống ổn định, thì mớichuyển sang hình
thức bình thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia
Định.Đợt lập đồn điền lớn nhất, do Kinh lược sứ Nguyễn Tri
Phương tổ chức vào năm 1853 tới năm 1854 đã lập được 21 cơ 124
ấp, phân phối ở cả 6 tỉnh.
c2. Doanh Điền
Chính sách này là di dân để lập
ấp mới, bắt đầu thực hiện từ năm 1828 dưới thời Minh Mạng, theo
đề nghị của Nguyễn Công Trứ vào năm 1828. Cách thức lập ấp được
quy định như, triều đình bỏ vốn ban đầu và đề cử quan chức đứng
ra chiêu mộ dân chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp.
* Số dân mộ được là 50 người đủ một lý, người đứng ra mộ ấy sẽ
được ban chức lý trưởng.
* Số dân mộ được là 30 người đủ một ấp, người đứng ra mộ ấy sẽ
được ban chức ấp trưởng.
Và thời gian sáu tháng ban đầu
triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực
và phương tiện sản xuất. Từ tháng thứ bảy thì dân phải tự lo, và
triều đình miễn thuế cho các ấp hay lý mới này trong 3 năm.
Tổng Giao Thủy thuộc tỉnh Nam
Định cũng được thành lập theo hình thức này… Về sau các quan ở
Gia Định như Trương Minh Giảng, Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu
Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng noi gương và thực thi chính sách
này trên vùng mình cai quản.
Và với chính sách đồn điền đã trở
thành một quy mô rất lớn, thu được nhiều thành công với thành
quả diện tích điền thổ của Việt Nam tăng lên gấp bội.
c3. Khai Khẩn Ruộng Hoang
Chính sách đồn điền và doanh điền
lại được triềuNguyễn đưa ra một loạt luật lệ thưởng phạt phân
minh trong việc khai thác điền địa đã được khẩn hoang, và ngăn
ngừa tình trạng bỏ đất nửa chừng mà không canh tác.
Tóm lại triều Nguyễn đã khuyến
khích toàn dân tự do khai hoang phục hóa, và việc đinh điền mỗi
ngày một chỉnh đốn, kiểm soát chặt chẽ hơn. Chính sách điền địa
dưới thời Minh Mạng đã được đo đạc lại rõ ràng, tổng cộng là hơn
630,075 mẫu, và tổng số đinh toàn quốc là 970,516 xuất với
4.063,892 mẫu canh tác.
Công lao mở mang bờ cõi của triều
Nguyễn quả thật hết sức to lớn đối với toàn dân ngày nay, thế mà
Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam lại vô ơn và đặt ra những luận
điệu tuyên truyền: “Chính sách khai hoang của họ Nguyễn trong
giai đoạn sau này là nhằm làm giàu cho giai cấp địa chủ và củng
cố cơ sở xã hội của chính quyền.
Do khẩn hoang và cướp đoạt tại
vùng đất phía Nam đã hình thành một tầng lớp đại địa chủ giàu có,
tập trung trong tay rất nhiều ruộng đất. Tầng lớp đại địa chủ đó
là chỗ dựa trung thành của chính quyền họ Nguyễn…”
2. Thương Nghiệp
a. Nội Thương
Việc thống nhất quốc gia vào đầu
thế kỷ 19 là một điều kiện thuận lợi cho nền thương nghiệp Việt
Nam nhằm phục hồi và tái thiết sau một thời gian dài chiến tranh
tàn phá. Hòang Đế Gia Long và các vua nhà Nguyễn đã thực hiện
công tác hạ tầng cơ sở, tu sửa, chỉnh trang và mở rộng đường xá
cầu cống, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều để cho công
việc buôn bán của người dân được tiện lợi.
Ví dụ: đường xá trong nước là sự
khẩn yếu cho việc chính trị, Gia Long ra lệnh cho quan lại các
doanh các trấn phải sửa sang đường lộ, dân sở tại phải đắp đường
làm cầu, cứ 15,000 trượng đường thì vua phát cho dân 10,000
phương gạo.
Từ ải Nam Quan (thuộc Lạng Sơn)
vào tận Bình Thuận cứ 4,000 trượng đường phải làm một nhà trạm ở
cạnh quan lộ, để cho du khách qua lại nghỉ ngơi, và cả thảy đã
có 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào Miền Nam Việt Nam đến Hà
Tiên, thì phải đi đường thủy.
b. Kỹ Nghệ
Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt
trước, kỹ thuật công nghệ Tây phương đã được các vua chúa mang
vào áp dụng rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà
Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công trình
được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như
thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà Nội… Thời Gia Long đã
từng cho đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển.
Năm 1803, Gia Long thành lập
xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng
lập các Ty trông coi các ngành thủ công.
Ví dụ như ty Vũ khố chế tạo điều
hành và quản trị nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm
đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê,
khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng.
Ty Thuyền chịu trách nhiệm về các
loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc.
Ngoài ra còn có các ty Doanh kiến, ty Tu tạo, ty Thương bác hoả
dược.
c. Kỹ Nghệ Nặng
Sang đến thời Minh Mạng đã có
nhiều hãng xưởng kỹ nghệ máy móc mang tính mới mẻ được chế tạo,
như máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng
sức trâu. Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn Viết Túy với sự đồng ý của
vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức
nước mang tên Thuỷ hoả ký tế.
Sau đó những năm 1837 đến 1838,
theo mẫu máy móc Tây phương, nhóm thợ thủ công Việt Nam cũng chế
tạo được nhiều máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước
tưới ruộng... và xe cứu hoả. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các
kiểu mẫu của Tây phương, các đốc công Hoàng Văn Lịch và Vũ Huy
cùng toán thợ xưởng Việt Nam đóng thành công chiếc tàu máy hơi
nước đầu tiên, và được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi.
Năm sau, vua lại chỉ đạo cho họ
đóng một chiếc tàu kiểu mới tân tiến hơn, và sửa chữa lại một
chiếc bị hỏng. Tới thời Tự Đức, rất nhiều sách kỹ thuật phương
Tây được dịch sang tiếng Hán, như Bác Vật Tân Biên, Khai Môi Yếu
Pháp, Hàng Hải Kim Châm…
Ngành nghề đóng tàu Việt Nam, vào
năm 1819 Sĩ quan kiêm thương gia Hoa KỳJohn White tới Gia Định,
và được nhà vua Gia Long hứa hẹn dành mọi sự dễ dàng trong việc
buôn bán của Hoa Kỳ ở Việt Nam. John White (1820) đã nhận xét: “Người
Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành
công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác.”
(The Vietnamese are truly master shipbuilders. they complete
their projects with the utmost precision).
Ngoài các thuyền gỗ, thợ Việt Nam
còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng, và sáng chế nhiều máy móc
tân tiến, đạt phẩm lượng cao như máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng,
máy hơi nước…
Phần lớn nhân lực trong các hãng
xưởng Việt Nam lại do triều đình trưng dụng, từ những thợ khéo
trong các ngành khảm xà cừ, kim hoàn, thêu dệt, may vá… làm việc
và cung cấp đồ dùng cho triều đình.
Vì vậy người thợ thường tìm cách
trốn tránh, dù cho vua có áp dụng những biện pháp trừng phạt để
ngăn ngừa. Thợ khéo ít dám trổ tài vì chẳng thấy lợi lộc nhiều…
có lẽ do tuyên truyền xuyên tạc của những thành phần Kháng
Nguyễn Phục Lê… vì thế cho nên họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để
bán cho dễ, cho đủ ăn.
Thợ nào chế tạo đồ tốt cũng phải
mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu thế kỷ 19
có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc, nhưng phải bỏ
trốn vì sợ nhà vua trưng dụng, số khác lại làm đồ giả theo Trung
Quốc, tránh quan quân mua rẻ hay tịch thu.
Triều Nguyễn cũng tập trung khai
thác quặng mỏ, vào đầu thế kỷ 19 triều đình đã điều hành tổng
cộng 139 quặng mỏ, năm 1833 đã có 3,122 công nhân viên chức, tuy
nhiên, phương pháp khai thác quặng mỏ thời bấy giờ cũng chưa
được phát triển như thế giới Tây phương. Nhưng một điều đáng
tiếc là những tiến bộ của Triều Nguyễn sao lại không tác động
vào tiến trình phát triển kỹ nghệ của xã hội Việt Nam?
Tại sao tới giữa thế kỷ 19, Việt Nam vẫn còn là một nước nông
nghiệp sản xuất lạc hậu, chậm tiến so với thế giới Tây phương?
Và điều gì đã làm cho Nhà Nguyễn thất bại trong công cuộc kỹ
nghệ hóa, không tạo được cuộc cải cách thực sự như Minh Trị
Thiên Hoàng (1852 - 1912) ở Nhật Bản?
Khi có mặt ở cố đô Huế và đọc lại
nhiều tài liệu sách sử, người viết rất ưu tư trong việc đi tìm
nguyên nhân thất bại của cuộc cải cách và kỹ nghệ hóa mà Triều
Nguyễn đã có chủ trương. Và nhất là khi Anh Quốc chiếm Tân Gia
Ba, vua Gia Long đã thấy cần phải giao hảo với người Tây phương
nhưng không biệt đãi cho một quốc gia nào.
d. Dịch Vụ Thương Mại
Triều Nguyễn hàng năm, cũng tổ
chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực
hiện việc giao dịch buôn bán. Từ năm 1824, Minh Mạng đã sai sứđi
công cán ở Hạ Châu (Tân Gia Ba) và Giang Lưu Ba (Nam Dương).
Năm 1825, vua Minh Mạng lại phái
người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Và sau đó, mỗi năm
đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của
người Tây phương ở khắp Đông Nam Á.
Từ năm 1831 trở đi, các chuyến
công cán càng lúc càng nhiều, nơi đến cũng đa dạng: Hạ Châu, Lữ
Tống (Phi Luật Tân), Bắc Úc, Quảng Đông, Giang Lưu Ba... Trong
khoảng thời gian năm 1835 tới 1840 đã có 21 chiếc tàu được cử đi,
hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về
là len, dạ và vũ khí đạn dược.
Các hoạt động này hầu như triều
đình độc quyền, mặc dù tư nhân không bị luật lệ nào ngăn cấm.
Tài liệu chỉ cho thấy, các thuyền
buôn tư nhân Việt Nam vì không được trang bị vũ khí, nên không
chống lại được bọn hải tặc Trung Quốc hoành hành trên biển, từ
vịnh Thái Lan tới đông bán đảo Mã Lai. Dù vậy cũng có ít nhiều
thương nhân lợi dụng các chuyến tàu thương mại này để buôn lậu
gạo và thổ sản sang Hạ Châu, hay Quảng Châu.
3. Thương Gia Việt Nam
Hàng năm, thuyền buôn Trung Quốc
thường đi lại giữa Việt Nam và Tân Gia Ba. Thương nhân Hoa kiều
thường hay lén chở gạo của Việt Nam đi bán, và mang thuốc phiện
về.
Khiến cho những năm 1820 tới
1830, Việt Nam giao dịch với Tân Gia Ba cũng trở thành hạn chế.
Năm 1824, giá trị mậu dịch của Việt Nam là 93,781 Mỹ kim.
Năm 1826 tới 1827 tổng số mậu
dịch là 124,698 Mỹ kim. Nguyên nhân do hàng hóa của Việt Nam phù
hợp với thị trường Trung Quốc thời ấy, và vì nhờ Hoa kiều mà mậu
dịch quốc tế ngày ấy hoạt động.
Học giả Trần Trọng Kim cho rằng
“Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng,
nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng
triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở
trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu
mối lợi lớn về tay người ngoài mất.
Thỉnh thoảng có một ít
người có mươi lăm chiếc thuyền manh chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia,
nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.”
Ở Kẻ Chợ trong thế kỷ 19 các
thương khu (phường) đã thay đổi nhiều, vào giữa thế kỷ 19 thì đã
thoát khỏi trạng thái chợ phiên có kỳ hạn và đã có thương gia
cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thị trấn Thanh Hóa được bắt
đầu xây dựng đầu thời Gia Long và tới năm 1885 đã là một trung
tâm thương mại.
Ở kinh đô Huế, thời Gia Long cư
dân ở chen chúc thường hay có hoả hoạn, nên năm 1837 triều đình
cho chỉnh trang lại và lập chợ Gia Hội có tất cả 399 gian, dài
suốt hơn 319 trượng, tất cả đều có cột bằng gạch nung và xây
bằng vữa vôi.
Tuy nhiên, thương mại của Việt
Nam rất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của người Hoa để bán lại
kiếm lời. Sự tổ chức thương mại của người Việt sao quá sơ sài và
chỉ có trong phạm vi gia đình.
Nếu có những hội buôn lớn thì
cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để
kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên kết lại thành những
hội buôn làm ăn lâu dài.
Nhiều người Việt Nam cho vay lãi
trở nên phát tài nhưng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ
không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ.
Do đó mà thương nghiệp không mạnh được, một phần lớn cũng bởi
tâm lý của người dân.
Việc buôn bán ở các chợ quy mô
lớn lại bị kiểm soát bởi thương nhân Hoa kiều, dù những người
này chỉ là thiểu số. Người Pháp Dutreuil de Rhin (1876) đã nhận
định rằng: “Nhân số Hoa kiều tuy ít nhưng đã chiếm được các
thương nghiệp lớn lao.”
Một mặt Hoa kiều mua thổ sản như
gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu để bán và nhập cảng trà, thuốc
Bắc, vải, đồ đồng, giấy mực. Trong vùng quê, hoạt động thương
mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công nghệ ở
các chợ.
Nơi đó, ngoài những cửa hàng tạp
hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông
dân bán thổ sản, nông sản của mình và một số thương nhân nhỏ bán
vải vóc, hàng xén, cau thuốc đi rong từ chợ này sang chợ khác.
Ngoài các tổ chức buôn bán đại
quy mô ra, Hoa kiều trong các đô thị lớn còn kinh doanh sòng bạc,
đánh đề hoặc đút lót cho tham quan để được đúc tiền, trưng thầu
thuế đò, thuế chợ hay độc quyền về rượu. Có những Hoa thương có
thế lực còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình.
Dù sao guồng máy triều chính cũng
đã cản trở nhiều sự trao đổi hàng hoá, bởi những nhiêu khê qua
thủ tục hành chính ở các cửa ải, và sở thuế vụ. Vua Gia Long và
Minh Mạng cũng cho đúc những nén vàng nén bạc, và cho thấy kinh
tế thương mại có những bước tiến lên và phát triển.
Tuy nhiên, các nén vàng bạc lại
chẳng được đầu tư, mà dân chúng đem cất giữ bởi tâm lý con người
còn mang nặng tính nông nghiệp. Xã Hội Việt Nam đã thiếu hẳn lớp
người thương gia, đang khi có đủ chính trị gia, khoa học gia hay
sử gia Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
4. Cho Vay Ăn Lời
Như trên người viết đã đề cập đến
Đinh Bình Hầu Nguyễn Công Trứ (1778-1858) người lừng danh với 3
quốc sách đồn điền, doanh điền, và khai khẩn ruộng hoang. Buổi
thiếu thời, dù sống cảnh hàn vi nhưng Ông luôn cố gắng học hành
để mong thi đỗ, làm quan giúp dân giúp nước.
Sau nhiều lần thi hỏng, cuối cùng
cũng đậu Giải Nguyên năm Gia Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh
Mệnh nguyên niên 1820, Ông ra làm quan lúc 42 tuổi, và thường
khuyên chúng ta làm tròn phận sự Kẻ Sĩ, lập công danh sự nghiệp
và bình tâm sáng tạo dù gặp cảnh ngộ nào.
Lời văn hào hùng ngạo nghễ, biểu
lộ bản lĩnh chính trị vững vàng, chí khí mạnh mẽ, thái độ cầu
tiến, quả là khẩu khí của kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ suốt đời hăng
say phục vụ dân nước, và xứng đáng cho chúng ta kính phục:
Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì Sĩ đã có tên
Từ Chu Hán vốn Sĩ này là quý
Miền hương đãng đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cang thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hưu hưu nhiên điếu vị canh Sằn
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịnh tà cừ bí
Hồi cuồng loan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương
Sao cho bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi nhân gian giai phận sự
Nam nhi đáo thuỷ thị hào hùng
Nước nhà yên thì Sĩ được thung dung
Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Này thơ, này rượu, này địch, này đàn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này Sĩ mới hoàn danh.
Nhưng tiếc thay trong Kẻ Sĩ đó
chưa có nhận thức đầy đủ về quan niệm người “Thương Gia Trí Thức,”
là hệ trọng trong cuộc cách mạng nông nghiệp mà triều Nguyễn chủ
trương để xây dựng và kiến thiết quốc gia.
Hình ảnh của người Thương Gia
trong xã hội kỹ nghệ phải được coi trọng, đặt lên hàng đầu nhằm
giúp dân chúng noi gương học hỏi, để thay đổi quan niệm “Cày sâu
cuốc bẫm” của xã hội nông nghiệp tiến lên thời đại văn minh kỹ
nghệ.
Ví dụ: Nhật Bản năm 1872 bãi bỏ
giai cấp Võ Sĩ Đạo (Samurai) làm giảm mẫu “Người Hùng Quân Sự”
trong cuộc cách mạng Minh Trị (Enlightened rule) thay bằng hình
ảnh “Thương Gia Trí Thức” và đề cao lớp người buôn bán trong xã
hội quân chủ.
Ngoài ra Anh Quốc, Hòa Lan, Bỉ
Quốc… Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai là những nước quân chủ lập hiến
chuyển qua đại nghị theo đường hướng hòa bình, như lời triết gia
Hegel: “Xã hội con người được cai trị từ một người, đến
một giai cấp và đến toàn dân. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho một
xã hội dân chủ.”
Trong Thánh Kinh, đệ tử Giu Ða
bán thày với gía 30 đồng, số tiền ngày ấy cũng không nhỏ và mua
được khu thương mại gọi là ruộng máu… điều này chứng tỏ nền tài
chánh của dân Do Thái cách nay hai ngàn năm đã phát triển cao.
Trong kinh cũng nhắc đến mẫu
người “cho vay ăn lời,” dù có phê bình theo quan niệm tôn giáo,
“con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước trời.”
Nhưng truyền thống sinh họat thương mại “cho vay” đúc lên mẫu
người Tài Phiệt Do Thái, mà xưa nay họ nắm vận mệnh tài chánh
toàn cầu.
Với truyền thống “cho vay ăn lời”
người Do Thái bành trướng trên thế giới, chính là nguyên nhân
thầm kín mà nhà lãnh tụ độc tài Ðức Quốc Xã Adolp Hitler
(1889-1945) nhận ra, và muốn chấm dứt nạn lệ thuộc tài chánh của
tài phiệt Do Thái đang nắm giữ vận mệnh Châu Âu.
Và muốn dành lại chủ quyền tài
chánh cho Ðức Quốc và Châu Âu, Quốc trưởng Hitler một mặt dựng
ra thuyết chủng tộc Aryan làm bung xung, nhưng mục đích là để
khuyến khích thanh niên Đức Quốc Xã đấu tranh sinh tồn chống lại
thuyết Do Thái Giáo, mặt khác, lãnh tụ độc tài này cũng muốn
giành lại chủ quyền tài chánh từ tay nhóm tài phiệt người gốc Do
Thái khắp nơi.
Nhìn lại những thước phim tài
liệu của cơ quan tuyên truyền Ðức Quốc Xã, chúng ta thấy rằng họ
chỉ dám nhắm vào cái gọi là “Người Do Thái dơ bẩn” chớ không dám
nêu đích danh “Khối Tài Phiệt Do Thái,” thì đủ hiểu lớp người
Thương Gia Do Thái này ở cấp chúa tể nào rồi.
Hậu quả cuộc Thế Chiến II không
những là thảm họa chung cho nhân loại, nhưng chính là thảm bại
của Châu Âu, của Ðức Quốc vì “Chiến Tranh Tài Chánh” mà Quốc
trưởng Hitler chủ trương đã thua cuộc với khối Thương Gia Do
Thái, và truyền thống ngàn đời “cho vay ăn lời” đã chiến thắng
trong thầm lặng trên mọi cuộc diện chiến trường thế giới, mà hầu
như ít ai biết đến.
V. Văn Hóa
Triều Nguyễn để lại cho lịch sử
một di sản văn hóa hết sức lớn lao, riêng số sách triều Nguyễn
biên soạn trong thế kỷ 19 đã nhiều hơn sách sử của 300 năm trước
cộng lại. Gia Long là người đề cao sự học vấn, cho lập Văn Miếu
ở các doanh các trấn thờ Vạn Thế Sư Biểu Khổng Tử, lập Quốc Tử
Giám ở Kinh Thành Huế vào năm 1803 dạy cho quan lại và sĩ tử.
Gia Long còn cho mở những khoa
thi Hương chọn người có học có hạnh ra làm quan, ban hành hai
đạo dụ mở trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và
chương trình học chế, tái lập những khoa thi ở các trấn. Mỗi
trấn đều có quan Đốc học, Phó Đốc học hoặc Trợ giáo, ra hạn định
hàng năm cứ tới tháng 10 triều đình sẽ mở khoa thi.
Cứ ba năm triều đình mở khoa thi
Hương ở các địa phương, những người trúng cao được gọi là Cử
nhân trúng thấp là Tú Tài. Năm sau, kinh đô mở thi Hội tại bộ Lễ,
những Cử Nhân năm trước ra ứng cử để vào thi Đình trong điện nhà
vua lấy các bậc Tiến Sĩ.
Sinh hoạt giáo dục trong dân
chúng đều được tự do nghiên cứu học hành, bất cứ ai có khả năng
học vấn đều có thể mở trường tư thục dạy học. Mỗi làng thường có
dăm ba trường tư thục, hoặc học ở nhà thày, hay học ở nhà phú
hào là người xuất tiền rước thày về dạy cho con mình và cho con
cháu trong họ hàng lối xóm.
Theo Học giả Trần Trọng trong Kim
trong Việt Nam Sử Lược (1919), thì người Việt Nam vốn chuộng cái
học, nên số người đi học cũng nhiều. Tuy nhiên việc học hành
càng lúc càng thoái hóa, vì nhiều người đi học chỉ mong làm quan
hầu có địa vị để ăn trên ngồi trốc trong xã hội.
Tác giả cho rằng: “Bao
nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ
những sách Tứ Thư Ngũ Kinh, cùng những lời thể chú của tiền nho
trong những sách ấy, và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự
luyện tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ
khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách.
Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực
thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình
hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước.
Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho
thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.
Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào
trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được... Đại khái,
cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bây giờ là thế, cho
nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng
mộng mị.
Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn
kém cỏi như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.”
Sau hai trăm năm, ngày nay nhiều
người phê phán triều Nguyễn và nền Nho học hủ lậu, nhưng xin hỏi,
Tây học và kỹ nghệ giáo dục hiện tại có thực sự tạo ra mẫu người
phục vụ cho nhân quần xã hội theo phương châm Ngày nay đi học –
Ngày mai giúp đời?
Lại nữa, Hoàng đế Minh Mạng
(1791-1841) là người thông minh, cởi mở, và có cái nhìn tinh tế
về sự kiện hủ lậu của Nho gia. Ngài muốn canh tân học hành thi
cử, nhưng triều thần gồm quan lại hủ nho và tham lam quyền lực…
Không ai có cái viễn kiến chính
trị để giúp vua soạn thảo chương trình quốc phú dân cường. Đang
khi Nhật Bản lại có người đề xướng: “Nhật Bản muốn tránh tình
trạng bị đô hộ thì cần có một chính quyền mạnh, hợp thời và kỹ
thuật hạng nhất của Tây phương.”
Bởi thế Hoàng Đế Mutsuhito (1852
- 1912) sau khi lên ngôi một năm, đã ký sắc lệnh cải tổ chính
trị và chuyển việc điều hành quốc gia xuống cho các bộ. Ngài làm
được cuộc cách mạng, gọi là Minh Trị: Enlightened rule xứng danh
Minh Trị Thiên Hoàng, khai sáng một kỷ nguyên hoàng kim Minh Trị
(Meiji Era) trong lịch sử Nhật Bản.
Cái mấu chốt thành bại của một
cuộc cách mạng dân tộc, chính là ở điểm mà người viết nêu trên.
Trong Quốc Triều Chính Biên, sách
do Bộ Học nhận chỉ dụ của vua Khải Định năm thứ 9 thực hiện và
dịch ra chữ quốc ngữ -- chúng ta hãy nghe vua Minh Mạng đưa ra
quan điểm của ngài như sau: “Lâu nay cái học khoa cử làm
cho người ta sai lầm, trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ
nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe
khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay
thấp do tự đó.
Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào
mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi.
Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần
đổi lại.”
Và rồi hai trăm năm qua, trước
mắt chúng ta với nền Tây học của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản
tại Việt Nam, liệu đã có ưu việt hơn hoặc vượt thoát khỏi tầm
nhìn của Hoàng Đế Minh Mạng và Học Giả Trần Trọng Kim?
Khi viết xong tôi gởi bài sưu tầm
– biên khảo này vào email, rồi in ra một bản để kính cẩn trao
cho Cụ và kính tặng Cụ một tác phẩm Học Thuyết Tiên Rồng. Sau đó
tôi xóa bài viết trên máy vi tính để giúp an toàn bản thân, và tôi vĩnh
biệt Cụ Già Ngự Bình mà tiếp tục công việc đi tìm Mùa Xuân cho
Dân Tộc Việt Nam.